‘Âm’ và ‘Vọng’ trong ‘Âm Vọng’ của Lê Thị Thấm Vân - Trần Doãn Nho

Lê Thị Thấm Vân Lê Thị Thấm Vân là một tác giả thành danh ở hải ngoại sau 1975. Chị viết nhiều – đa phần là tiểu thuyết – viết thực, viết bạo với một văn phong mới mẻ, thoát ly hẳn khỏi lối viết tự sự truyền thống.


“Âm Vọng,” xuất bản năm 2003, là một tác phẩm đa dạng với một cấu trúc khá phức tạp. Gọi là tiểu thuyết, nhưng chẳng khác gì tự truyện. Là một tổng hợp của vô số chuyện, chuyện này đan xen, chen 

 Tác giả Lê Thị Thấm Vân

lộn với chuyện nọ, được kể với giọng văn khi thì dưới dạng tùy bút khi thì dưới dạng kể chuyện, đôi lúc lại chẳng khác gì đoản văn.

 <!>

Chữ nghĩa và ý tưởng đùn đẩy lẫn nhau, có lúc đột ngột bị cắt ngang rồi đột ngột trở lại đâu đó ở một nơi khác, một câu chuyện khác. Có nhiều đoạn, tác giả viết theo lối “dòng tư tưởng” (stream of consciousness writing) không đầu không đuôi không chấm không phẩy không viết chữ hoa chữ thường và không cả văn phạm, rất khó cho độc giả nắm bắt nhân vật và cốt truyện.

Tuy được xây dựng trên bối cảnh của đất nước Hoa Kỳ, truyện là một pha trộn của hai xứ sở, giữa quá khứ và hiện tại, đồng thời cũng là một pha trộn giữa sự kiện và suy ngẫm, giữa tục và thanh, giữa nghiêm túc và sỗ sàng. Lại thấm đẫm hiện thực. Đó là một thế giới của đậu lộn kê, đất trộn cát, lá trộn hoa, vàng trộn thau, thanh trộn tục…

Chữ nghĩa phơi bày ra y như bộ mặt một thành phố sau cơn lụt lớn, khi nước rút đi, tất cả mọi rác rưởi chen trong đồ đạc, vật dụng đủ loại nằm ngổn ngang trên mặt đất, sứt mẻ, tan vỡ, hư hỏng. Đó là một thế giới bừa bộn, nơi mọi thứ được lộn trái ra ngoài. Đó cũng là thế giới của những tâm tình khúc mắt, nơi chứa đựng những cái cao siêu nhất bên cạnh những cái tối tăm, bần tiện, nhỏ nhen và bẩn thỉu nhất. Một thế giới mà đi vào, ta tưởng rằng đó là một nơi hoàn toàn xa lạ, hóa ra, lại khá gần gũi.

Mặt khác, thế giới của “Âm Vọng” là một thế giới bày biện ra những chuyện rất riêng tư đàn bà, riêng tư trong từng góc hẹp, từng kẽ nứt của cuộc sống và của tâm hồn người phụ nữ, những riêng tư mà “lẽ ra, nó chỉ nên được kể cho chính mình và suy ngẫm hơn là đưa ra ngoài,” như lời thú nhận của Lê Thị Thấm Vân.

Bóc trần mọi vỏ bọc để nhìn tận cùng chân dung của sự vật, như thế, là dụng ý của tác giả. Hãy thử nhìn qua cái thế giới rối rắm “bên trong,” nằm “đàng sau” những hình ảnh thường được ca ngợi là hồn nhiên, trinh trắng, thơ ngây của những thiếu nữ đang ở tuổi dậy thì, được chị bóc trần một cách không khoan nhượng:

“Tấm hình chụp bầy con gái mười một mười ba mười lăm mười bảy tan trường trong tấm áo trắng phin nõn, lụa là trắng phau phau. Trong đám ấy, bao đứa bé đang có kinh, phải xoay xở băng bó thế nào, để đừng lan chảy thấm ướt ra quần, cũng đồng màu trắng phau phau. Bao đứa bé không được phép bước nhanh, chạy chơi u mọi, nhảy dây, trèo cao. Và đạp xe đạp, ống quần bị nghiến chặt trong xích xe, rách nát, giặt vò rã tay cũng chẳng bao giờ tẩy sạch vết dầu xe. Bao đứa bé đang lấy cặp che gò vú đang nảy nở, chỉ làn gió nhẹ đung đưa, phô bày khoảng lưng trần nuột nà con gái trinh nguyên. Chỉ cần mưa nhỏ hột, hiện rõ ngay từng đường chỉ xú chiêng. Những đầu ngón tay ghì chặt vạt áo để che đường viền quần xi líp. Ai là người sáng chế, nghĩ ra nữ sinh Việt Nam phải bận áo dài trắng quần trắng, bó sát thân thể đang vươn sức sống? Điệu đà thục nữ đoan trang dịu dàng mềm mại e ấp. Trinh trắng. Hồn nhiên. Ngây thơ. Tự do phải bị băng bó. Fuck! Bà chửi thề. Trò rửa mắt hả hê của bọn đàn ông. Gợi lòng tham dục của đám đực rựa. Đừng dựa hơi thẩm mỹ. Đừng ỷ vào văn hóa truyền thống. Tất cả đều có thể đập đổ nát vụn. Phải là đàn bà, băng qua mọi đọa đày, khổ ải, hiểm nguy, mất mát, thiệt thòi mới thấu hiểu được những giải băng dùng bó tay, bịt mặt, cột người như thế…” (trích).

Nghe thật “tiêu cực!” Phải chăng bản chất cái thật vốn dĩ là “tiêu cực” (thậm chí đến mức sỗ sàng) hay “tiêu cực” là một cách phán xét thái độ của con người về hiện thực? Giả sử ta lấy hết những đoạn văn “tiêu cực” ra khỏi tác phẩm thì tính cách rất riêng của nó có còn nguyên vẹn hay bị sứt mẻ? Tôi không/chưa tìm ra câu trả lời.

“Âm Vọng” chọn hình tượng của bốn phụ nữ Việt Nam – vốn được lưu truyền như là truyền thuyết được ghi lại trong Lĩnh Nam Chích Quái – mà số phận của họ biểu hiện một số nét điển hình nào đó của người phụ nữ Việt Nam trong quá khứ, để đối sánh với cuộc sống gian truân của những người phụ nữ Việt Nam trong bốn, năm thập niên vừa qua, sau biến cố Tháng Tư, 1975.

Âm vọng: âm thanh và tiếng vọng lại. Bốn phụ nữ đó không là những nhân vật lịch sử đáng kính như bà Trưng, bà Triệu, Ỷ Lan phu nhân, hay Bà Huyện Thanh Quan, mà là những nhân vật hư cấu, bà nào cũng trải qua những thiên tình sử đầy nghịch cảnh, vừa bi kịch vừa hài kịch: Tiên Dung (Chử Đồng Tử), nàng công chúa mà số phận khắc nghiệt đã khiến nàng phải chọn làm chồng một người thuộc loại tứ cố vô thân, vua cha không chấp nhận đành phải từ bỏ cuộc sống vương giả, theo chồng đi xa kiếm sống; Mỵ Châu (Trọng Thủy), nàng công chúa đã vì yêu chồng mà trở thành kẻ phản bội quốc gia để cuối cùng phải chết thảm; Âu Cơ (Lạc Long Quân), lấy vua, sinh được 100 con, nhưng do số mệnh tương khắc, bị buộc phải xa lìa cuộc sống êm ấm bên chồng con, mang 50 đứa đi lập nghiệp ở một nơi khác; và Man Nương, cô gái nghèo khổ vào ở trong chùa, chửa hoang, xấu hổ phải đem con đi cho một chùa khác.

 

Âm Vọng
Tiểu thuyết “Âm Vọng” của Lê Thị Thấm Vân d

Thân phận trớ trêu, éo le của họ như một “lời nguyền” trùm lên thân phận người phụ nữ Việt Nam suốt chiều dài lịch sử. “Âm” của họ “vọng” lại trong số phận cực kỳ bi thảm của những người phụ nữ Việt Nam trong năm thập niên qua, do hậu quả của chiến tranh, nghèo đói, chia cách, kỳ thị…

Âm vọng là một cách ví von, vừa để chế giễu, vừa để nói lên cái chua chát của thân phận người phụ nữ: chịu đựng và tự vùng vẫy để tồn tại dưới những điều kiện tệ hại nhất.

So với bốn nhân vật truyền thuyết trên, số phận của những người phụ nữ như thế vượt hẳn họ cả về nghịch cảnh, đau thương và khốn khổ.

Đó là một người đàn bà sắp vào tuổi 40, mẹ mất sớm, ở với người cha tâm thần và mẹ ghẻ; vừa bị mẹ ghẻ và ba đứa em cùng cha khác mẹ ghét bỏ, lại bị cha ruột hiếp dâm lúc còn nhỏ. Theo gia đình đi vượt biển, nằm ép sát bên một tu sĩ trẻ, trong hoàn cảnh sinh tử, cả hai đã hiến thân cho nhau một cách cuồng nhiệt. Qua Mỹ, tiếp tục đi học, ăn nằm với một sinh viên Mỹ trắng, có thai, rồi phá thai. Ra trường, không đi làm hãng, mà mở tiệm kinh doanh, rồi lấy chồng, có con.

Đó là một phụ nữ vượt biên qua Mỹ, thất học, tiếng Anh không biết, tiếng Việt chỉ toàn tiếng lóng, sống kiểu giang hồ, làm nghề nail, có hai đứa con với hai đời chồng và dan díu yêu đương với một “lố đàn ông chẳng ra giống gì,” sau kiếm được một “thằng bồ,” tuy đàng hoàng và chung tình, nhưng lại bất lực sinh lý.

“Mình vừa sợ vừa chán cả mình, bẩn thỉu dơ dáy như con đĩ già hết thời, cạn nước mà mình là con đĩ chứ con gì nữa” (trích).

Đó là một thiếu phụ, cha tập kết theo Cộng Sản, nhưng chồng theo quốc gia, bị đi cải tạo, phải thăm nuôi nhiều lần, nhưng rồi chồng chết trong tù vì bị ho lao. Đói khổ, phải liều mang hai con vượt biên. Được định cư, làm đủ thứ nghề nhọc nhằn kiếm sống, ấy vậy mà nuôi được đứa con gái học đến bậc tiến sĩ.

“Âm Vọng” là một thế giới hiện thực, hiện thực đến kinh hoàng. Đây là cảnh người mẹ-thuyền nhân gặp hải tặc trong một chuyến vượt biển:

“Những ngón tay bấu chặt thành ghe, nhát dao chặt, đứt lìa ba ngón. Ba ngón tay rơi vãi, máu tuôn loang giữa biển khơi. Nhát dao nhanh gọn đến độ má chưa kịp bưng mắt. Nắng nóng ngất trời. Tiếng rên la. Tiếng nghẹn trong cuống họng. Ngã té bổ nhào của từng loạt bà mẹ gào thét ôm con. ‘Lạy, lạy họ đi con, lạy họ tha cho, con ơi!’ Lạy những người đàn ông nói tiếng như tru, hú giống thú. Đám đàn bà con gái quỳ lạy vái van xin giữa tiếng rú cười hét hò quát tháo. Âm thanh thọc thủng tai. Hai bên đồng hiểu, người xin tha, kẻ không muốn. Chúng dùng hai chân đá và hai tay ghì. Những người đàn ông, con trai nhúc nhích là bị đẩy xô xuống biển. Ba ngón tay đã là lời cảnh cáo. Cái búa đập vào màng tang người đàn ông kháng cự đang nằm trong khoang không biết đã chết hay còn ngắc ngoải. Ba ngón tay níu lấy thành ghe như ráng giãy giụa đồng lõa kêu cứu van lơn. Đám con nít lùa xuống khoang, níu chặt lấy nhau. Con ơi, níu lấy má. Má thất kinh hồn vía, ôm chặt hai con vào lòng. Bốn bàn tay mà như trăm ngàn bàn tay bấu lấy chặt người má. Rồi nào có được tha! Má nhắm mắt, hai con hiện hình, đớn đau tủi hận đâm lì, rồi thiếp ngất, đớn đau rã rời thân xác. Một cô gái lồm cồm bò dậy, nằm úp mặt lên ngực má, tỉ tê gọi má ơi ba ơi. Má lại nhắm nghiền mắt. Tiếng hai con gào gọi má. Má biết, má nghe, má nằm im điếng lặng. Nhắm mắt để được ôm ghì hai con, che chở cô gái. Người má nhão sình như cọng bún dầm nước. Tiếng rên gào thét van xin bằng Việt Anh Pháp Tàu. Mặt trời chói lòa, nổ đom đóm” (trích).

Dù sao, quá quan tâm đến những yếu tố tiêu cực có thể khiến ta dễ quên đi những thông điệp tích cực mà tác phẩm gửi ra. Bên cạnh màu đen, màu xám, “Âm Vọng” cũng không thiếu màu hồng, màu xanh:

“Tuổi thơ của má gắn liền với mấy trái đu đủ xanh. Trưa nay đi chợ, mua được hai trái hơi hườm, má bày lên bàn thờ ông bà. Đứng vuốt dọc trái đu đủ như chạm vào tuổi thơ, gây cho má cảm giác hoang mang, sợ hãi lẫn thích thú, bồi hồi. Tuổi thơ cùng nỗi sợ hãi không tên, không hình dạng chập chùng chồng chéo. Sau này qua tới đảo, giữa màu lá xanh bạt ngàn, lẫn lộn những trái đu đủ vàng chín, má kiếm cán cây cứng đứng ngửa cổ thọt, trái rơi độp, mủ trắng chảy dài dọc bìa rừng. Những cây đu đủ hoang nuôi sống đám tị nạn ngu ngơ chân ướt chân ráo, da còn tẩm nồng mùi biển ngoài khơi. Đồng thời, bìa rừng cùng ngàn cây đu đủ chứng kiến bao buổi hẹn hò của đám tình nhân tị nạn vừa thoát chết” (trích).

Dù trải qua bao nhiêu nghịch cảnh, những người mẹ Việt Nam này, cũng như Tiên Dung hay Âu Cơ ngày xưa, đã chịu đựng và rồi vượt qua tất cả để sống còn.

“Khi sợ hãi quá [do hải tặc tấn công người trên thuyền vượt biển], má bỗng bình tĩnh một cách lạnh lùng.Và ngay giây phút ấy, má phải sống. Sống hùng sống mạnh. Sống với bất cứ giá nào” (trích).

Đó là một trong nhiều thông điệp vô cùng tích cực mà người đọc tìm thấy trong “Âm Vọng” của Lê Thị Thấm Vân. 

Trần Doãn Nho


Lê Thị Thấm Vân, tên thật Lê Thị Hoàng Mai, sinh năm 1961, sinh sống tại miền Bắc California, Hoa Kỳ, từ năm 1975.

Tác phẩm đã xuất bản: “Đôi Bờ” (truyện ngắn, 1993), “Mùa Trăng” (tiểu thuyết, 1995), “Việt Nam Ngày Tôi Trở Về” (tiểu luận, 1996), “Yellow Light” (thơ, 1998), “Xứ Nắng” (tiểu thuyết, 2000), “Âm Vọng” (tiểu thuyết, 2003), “Bóng Gãy Của Thần Tích” (tiểu thuyết, 2005).


Comments

Popular posts from this blog

Bài trăm năm - Trần Yên Hòa

Mẹ đi về phía hoàng hôn - Trần Yên Hòa

Truyện cực ngắn - Mã Lam