Chuyện Vãn: Nổ Như Tạc Đạn & Kho Đạn Long Bình - Vương Trùng Dương

 Hoàng Hải Thủy - Sách Truyện Tiểu ...

 

Nhà văn Hoàng Hải Thủy (Dương Trọng Hải), sinh năm 1933 Hà Đông (có bút hiệu Công Tử Hà Đông, cùng với các bút hiệu khác Ngụy Công Tử, Con Trai Bà Cả Đọi, Hạ Thu, Hồ Thành Nhân, Văn Kỳ Thanh, Gã Thâm, Dương Hồng Ngọc, Triều Đông, Người Sài Gòn …). Ông vào Nam từ 1951, là một trong những nhà văn phóng tác tiểu thuyết ăn khách nhất ở miền Nam Việt Nam.

<!>

 

Khi định cư ở Virginia, Công Tử Hà Đông hàng tuần Viết Ở Rừng Phong tổng cộng 709 bài, nhiều bài danh cho tuần báo Saigon Nhỏ. Ông qua đời ngày 12/6/2020, hai ngày sau tôi viết bài: Nhà Văn Hoàng Hải Thủy “Vĩnh Biệt Rừng Phong”! Trong đó đã liệt kê các tác phẩm từ thập niên 1950’ đến hải ngoại.

Tiểu sử Hoàng Hải Thủy được tác giả tóm lược: “Năm 1950 tôi từ Bắc Ninh, Bắc Giang trở về Hà Nội. Tôi đi học lại. Trường Văn Lang. Năm 1951 ông thân tôi là công chức, đổi vào làm việc ở Sài Gòn, mẹ tôi, anh em tôi vào theo. Năm 1951 tôi học trường Tân Thanh ở đường Lacoste. Năm 1952 tôi được vào làm phóng viên nhật báo Ánh Sáng, cuối năm 1952 tôi được Giải Nhất Cuộc Thi Truyện Ngắn năm 1952 của nhật báo Tiếng Dội. Tôi đi lính 2 năm. Năm 1954 tôi làm phóng viên, nhân viên nhật báo Sài Gòn Mới. 1956, 1957 tôi làm nhân viên USOM - United States Operation Mission - tiền thân của USAID. Cuối năm 1957 tôi trở về toà báo Sài Gòn Mới. Tôi viết tiểu thuyết phóng tác dzài dzài từ 1956 đến 1975, tôi viết truyện nhiều nhất ở nhật báo Ngôn Luận…”.

Với tài phóng tác của ông khoảng năm mươi tác phẩm (Anh, Pháp) nhưng trong một cuộc phỏng vấn năm 2011 ông cũng xác định một cách “nửa đùa, nửa thật” khi được hỏi chắc là ông phải rất giỏi ngoại ngữ nên mới chuyên về phóng tác: “Tôi mà “giỏi ngoại ngữ” thì trên cõi đời này còn có ai “dzốt ngoại ngữ?” Tôi tiếng Tây Bồi, tiếng Anh Bồi, tiếng Mỹ cũng bồi.”

Phóng tác đầu tiên của ông là cuốn tiểu thuyết trinh thám tiếng Pháp (Series Noir), “Après moi, le déluge”. Tác phẩm “Après moi, le déluge” của Cleve F. Adams (tạm dịch: Sau ta, hồng thủy) là một câu nói nổi tiếng thường được gán cho vua Louis XV của Pháp hoặc Madame de Pompadour, người tình của ông.

Hoàng Hải Thủy dựa theo quyển sách Après moi, le déluge phóng tác thành Nổ Như Tạc Đạn với 36 chương như thành ngữ nầy không liên qua nhiều đến nguyên tác. (Có người cho rằng theo quyển Sabotage của Cleve Franklin Adams, nhà văn Mỹ, trong Série Noire, xuất bản năm 1940, được dịch sang chữ Pháp). Hoàng Hải Thủy phóng tác với bối cảnh và nhân vật trong nước… Hùng con nhà khá giả gia giáo lọt vào một nhóm bạn (tất cả chừng 17, 18 tuổi)  Hùng ăn chơi, rất James Dean và có triết lý sống tự do tuyệt đối, hư vô chủ nghĩa, coi việc người con gái lấy chồng như là trở thành cái máy đẻ kiêm máy giặt. Hùng có giao tình với Hạnh, rồi hai người cùng Duy (lý thuyết gia của nhóm) tham gia một vụ “săng ta” (chantage, tống tiền). Với 3 chữ “Nu Ven Va” xuất hiện vài lần, muốn nói đến trào lưu “Nouvelle Vague” Ðợt Sóng Mới. Phong trào mới ở Âu Châu những năm 1960. Cuộc sống của những “enfant terrible” của Sài Thành một thuở được miêu tả rất sinh động trong lớp trẻ với lối sống hiện sinh…

Phóng tác này được đăng feuilleton nhiều kỳ trên nhật báo Ngôn Luận. Theo ông, Nổ Như Tạc Đạn là tiểu thuyết phóng tác đầu tiên của tôi và ấn hành năm 1956. Và cho biết “Ba chìm, bẩy nổi, chín lênh đênh.. Năm 2000, con tôi tình cờ tìm được Nổ Như Tạc Đạn trong một tiệm sách cũ ờ Sài Gòn. Sau 50 năm không nhìn thấy mặt nhau, Nổ Như Tạc Đạn đến Kỳ Hoa Đất Trích với tôi”.

Súng máy, súng liên thanh là loại súng bắn bắn liên thanh (rapid-fire) hoàn toàn tự động, có khả năng bắn thành các loạt bắn rất dài cho hết băng đạn… Đầu thập niên 1990’, Mỹ chế ra súng trung liên Bar và sau đó với đại liên 30, 50 bắn liên tục cả thùng đạn. Trong thập niên 1950 với tiểu liên Thompson, súng cầm tay gọn nhẹ nhưng chỉ bắn ở cự ly gần. Ngày nay Mỹ sản xuất LWMMG (Lightweight Medium Machine Gun (LWMMG) đạt tốc độ bắn 500 viên/phút, tầm bắn hiệu quả với cự ly lên đến 1.800 m. Loại nầy mới đích thực nổ như tạc đạn vì làm cho đối phương điếc con ráy.

Có nhiều tựa đề quyển sách từ danh từ riêng trở thành danh từ chung, trong đó có quyển Nổ Như Tạc Đạn của Hoàng Hải Thủy khi ví von, đả kích nhân vật bắn sùi bọt mép võ mồm.

*

Tháng 8 năm 2020, tôi viết bài Ngẫm Chuyện Xưa Nay: Từ Lục Súc Đến Lục Tiên & Bài Học Lịch Sử với bút hiệu Lâm Triều Anh (người tình của Vương Trùng Dương trong tác phẩm của Kim Dung).

Trích: “Vào thời trung học đệ nhất cấp trong chương trình Việt Văn của Bộ Quốc Gia Giáo Dục đã học về tác phẩm “Lục Súc Tranh Công” của khuyết danh (Vô Danh Thị) được hình thành vào thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh, cuối thế kỷ XVIII… Cùng thân phận với nhau nhưng 6 con vật tìm cách kể “công trạng” của mình và chê bai “công trạng” của bạn đồng loại kém cỏi, tầm thường. Và, khi kể công thì kiếm đủ lý do để “vinh danh” nhằm lập cho được thành tích, ngoài ra còn chê bai đối thủ đến tận cùng bằng số. Đó là hình ảnh của ngưu (trâu), khuyển (chó), mã (ngựa), dương (dê), kê (gà), thỉ (heo) lần lượt kể công:

Trâu:

“… Việc cày bừa, nông vụ vừa xong,

Lại xe gỗ, dầm công liên khoái…”

Chó:

“… Đêm năm canh con mắt như chong

Đứa đạo tặc nép oai khủng động,

Ngày sáu khắc, lỗ tai bằng trống,

Đứa gian tham thấy bóng cũng kinh…”

Ngựa:

“… Tao đã từng đi quán, về quê

Đã nghe trận đánh Nam, dẹp Bắc.

Mỏi gối lưng phò xã tắc,

Mòn lưng cúi đội vương công…”

Dê:

“… Hễ có việc, lấy dê làm trước

Dê dâng rồi, người mới lạy sau…”

Gà:

“… Trên đầu đội văn quan một mũ;

Dưới chân đeo hai cựa thần thương

Đã ghe phen đến chốn chiến trường,

Lập công trận vang tai, lói óc…”

Heo:

“… Kìa những việc hôn nhơn giá thú

Không heo ta, tính đặng việc chi?

… Việc hòa giải, heo đầu công trạng,

Thấy mặt heo, nguôi dạ oán thù…”

Hỡi ôi! lục súc mà cũng kể công, thấy trâu kể công, chó đâu có vừa, rồi ngựa, rồi gà… kể như có công, đến cả dê và lợn cũng kể công trạng, hết ý. Dù bù lu bù loa kể công trạng, có ít xít cho nhiều hầu chủ nhân bố thí chút tình cảm thương hại, chìu chuộng, đối xử khá hơn đồng loại nhưng lại không biết khi nào chủ cần “thanh toán” thì gặp phải tình cảnh cắt cổ, trụng nước sôi, luộc cho nhừ… và nhấm nháp.

Thuở đó cứ tưởng ngu như súc vật mới dại dột tranh công, gấu ó nhau cho cố rồi cuối cùng cũng bị “thịt”…

Tiếp tục đèn sách, đọc Phạm Quỳnh thấy ông phán: “Người đời thật không khác gì súc vật, có khi không bằng súc vật cũng nên” nghe mà tóa hỏa tam tinh, ghê gớm cho người đời, ông còn hạ loại người nào đó xuống dưới “đẳng cấp” súc vật...

Tác phẩm Tiếu Ngạo Giang Hồ của Kim Dung, với nhiều nhân vật, “mỗi người một vẻ” nhưng đến hồi thứ 61 trong quyển 4, theo bản dịch của Hàn Giang Nhạn, hình ảnh Đào Cốc Lục Tiên với 6 nhân vật quái gở xuất hiện trong thế giới võ lâm, Kim Dung dùng chữ “tiên” nghe cho kêu, thánh thiện nhưng thuộc loại trời gầm đất lở, ba trời ba trợn, nhố nhăng, kịch cỡm, nửa thầy nửa thợ nửa đười ươi, ba que, xỏ lá hết thuốc chữa…

Sáu nhân vật cũng nổi danh, bất chấp hắc bạch giang hồ, bất chấp luật lệ võ lâm: đại ca Đào Cán Tiên, nhị ca Đào Căn Tiên, tam ca Đào Chi Tiên, Đào Hoa Tiên, Đào Thực Tiên và Đào Diệp Tiên. Thuộc loại “Xú… Quái”. Tuy nghe tiên mẫu cho biết vậy nhưng ở vào tuổi ngoài năm mươi, sáu chàng vẫn mộng tưởng được bàn dân thiên hạ khen tặng như Phan An, Tống Ngọc…

Trong một lần “lâm trận”, trước tình thế nguy nan, Lệnh Hồ Xung tìm cách giải cứu bèn khen ngợi dung nhan tuấn mỹ của Đào Cốc Lục Tiên: “Đào Căn huynh cốt cách thanh kỳ, Đào Cán huynh thân thể khôi vỹ, Đào Chi huynh tứ chi dài rộng, Đào Diệp huynh mi thanh mục tú, Đào Hoa huynh… chà chà… mắt sang như sao, trên trời hiếm có. Đào Thực huynh tinh thần quắc thước. Bất luận ai mới ngó thấy sáu vị một lần cũng biết ngay các vị là những đấng anh hùng mặt ngọc, chuyên làm điều nghĩa hiệp”. Qua lời tâng bốc rồi được quần hùng phụ họa, thế rồi 6 tên “xú quái” quên hẳn địch thủ để tranh luận với nhau về nhan sắc của mình cho phủ phê thú tính.

Nơi nào có Đào Cốc Lục Tiên xuất hiện thì nơi đó huyên náo, cãi vã, tranh hơn tranh thua với lập luận chày cối… Đào Cốc Lục Tiên, 6 nhân vật trong võ lâm quái gỡ, với cái thói kiêu ngạo, ngông cuồng, dọa dẫm, bướng bỉnh, ngu dại… vẫn tưởng sự nhố nhăng, hung hãn của bọn chúng làm mưa làm gió nơi chốn võ lâm nhưng đối tượng nhìn vào thấy rõ chỉ là hình ảnh làm trò cười, kịch cỡm làm nhân vật bung xung cho những tay cao thủ của hắc bạch…

Mỗi nhân vật trong Đào Cốc Lục Tiên là hình ảnh “hiệp sĩ hoang tưởng” Don Quichotte của nhà văn Cervantès vào thế kỷ XVII. William Shakespeare (1546-1617), kịch tác gia nổi tiếng của Anh, trong tác phẩm The Comedy of Errors của ông đã để lại câu nói thành danh ngôn: “Danh vọng! Danh vọng! Danh vọng! Ôi, tôi đã mất danh vọng. Tôi đã mất cái phần bất tử của chính tôi và cái còn lại là cái thú vật”. Phải chăng “cái phần bất tử” đó là nhân cách?...” (Lâm Triều Anh)

*

Tổng kho Long Bình với diện tích 24Km2 là kho vũ khí lốn nhất được Mỹ xây dựng giữa năm 1965, cách thành phố Biên Hoà khoảng 7 km và cách Sài Gòn khoảng 20 km về phía đông. Tổng kho Long Bình là nơi đặt Bộ Tư Lệnh Dã Chiến II và Bộ Tư Lệnh Hậu Cần số 1 của Mỹ, nơi đây cũng là kho bom, đạn lớn của Mỹ ở miền Nam Việt Nam.

Ngoài những nhà kho trên mặt đất còn có hệ thống hầm ngầm lớn có nhiều lớp cửa, khóa cửa có mã khóa bí mật. Thường gọi là Kho Đạn Long Bình.

Chữ nổ thường đi kèm với danh từ như súng nổ, đạn nổ, pháo nổ, bình ga nổ, bánh xe nổ… Với những ai hay khoe khoang, khoác lác thì miệng nổ, đem “cái tôi đáng ghét” thường dợt le (với phái nữ. Với phái nữ cũng có nhưng nói về vạt chất nhiều hơn)… bị phán là nổ, bựa, tán phét hay ví von Kho Đạn Long Bình.

Những tay nổ thì thường đem chuyện hồi đó như “chó chạy rong” ra nói hươu nói vượn… tội nghiệp cho lỗ tai “Biết rồi, khổ lắm nói mãi” mỗi khi gặp nhau. Điệp khúc nầy chẳng mấy xa lạ mà cứ nói dai dẳng!

Bệnh nổ giống như bệnh tưởng, bệnh nầy thì bác sĩ bó tay. Trước đây tôi viết bài Bệnh Tưởng, Hài Kịch & Cuộc Sống. “Hài kịch Bệnh Tưởng (Le Malade Imaginaire) gồm 9 hồi, các nhân vật: Argan (thầy thuốc, người bệnh tưởng), Beline (vợ kế của Argan), Angélique (con gái của Argan và người yêu Clealte), Luison (con gái của Argan và em gái của Angélique), Beralde (em trai của Argan), Diafoirut (thầy thuốc, con trai là Thomas Diafoirut, người yêu của Angélique), Purgon (thầy thuốc của Argan), Toinette (hầu gái trong gia đình Argan). Nhân vật Argan với đầu óc hoang tưởng dần dà trở thành bệnh tưởng.

Hài kịch Le Malade Imaginaire của văn hào Pháp Molière được học giả Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) dịch là Bệnh Tưởng, ấn hành năm 1920 tại Hà Nội, nay đã hơn một thế kỷ mà thời đó “bức tranh vân cẩu” trời Tây đã du nhập vào trong nước, được diễn tại Hà Nội ngày 25/4/1920, mở đường hình thành nghệ thuật kịch nói ở Việt Nam.

Câu nói của người xưa “mục hạ vô nhân” để nói đến người cao ngạo, tưởng bản thân ghê gớm lắm nên xem thường thiên hạ.

Bài thơ Mục Hạ Vô Nhân của nhà thơ Nguyễn Khuyến ví von với tình trai gái:

“Chúng anh đây mục hạ vô nhân

Nghe em nhan sắc lòng xuân anh não nùng.

Dù em má phấn chỉ hồng

Dửng dưng anh chẳng thèm trông làm gì”.

Trong Tâm Lý Học đề cập đến mặc cảm tự ti (inferiority complex) và mặc cảm tự tôn (superiority complex) cũng là “Bệnh Tưởng”… Người mang mặc cảm tự ti, cảm thấy bản thân thua kém, không ra gì nên để khoác lác với mọi người với mặc cảm tự tôn với “cái tôi và cái tôi” trên hết, tự cao tự đại, kiêu ngạo, huênh hoang tự đắc, tự cao tự đại… vì vậy ít được thiện cảm.

Câu nói của Chesterfield “Khiêm nhường là đức tính tuyệt vời và là một trong những đức tính chân chính nhất”. Và trong cuộc sống, câu nói của Henri Frederic Amiel “Khó mà tôn trọng người khác nếu bản thân không tự khiêm nhường” rất chí lý.

Nhà văn Anh George Bernard Shaw nói rằng: “Làm người thì đừng bao giờ quá đề cao bản thân mình”. Người xưa cho rằng “Nước càng sâu càng tĩnh, người càng hiểu biết càng khiêm nhường” vì vậy trong quá khứ đã có những bậc vỹ nhân, thức giả, những thiên tài trong các lãnh vực… nhưng rất khiêm nhường, được mọi người tôn vinh và lưu truyền lại hậu thế. Trong mục Văn Hóa của tờ Đại Kỷ Nguyên lấy câu nói nầy làm tựa đề bài viết.

Kỳ thực, người tự cao tự đại, kiêu ngạo với người khác lại chính bản thân đôi khi cảm thấy không bằng người khác hay thấp kém nên kiêu ngạo, tự cao chính mình để khỏa lấp chỗ trống trong lòng, họ sợ người khác coi thường bản thân. Ngược lại, khiêm nhường lại xuất phát từ sự tự tin của nội tâm, không màng hư danh, lợi ảo của người đời. Người chân chính có đại trí đại huệ, xưa nay vẫn luôn khiêm nhường, tôn kính vạn vật…

Khiêm nhường ở đây không có nghĩa là hạ thấp giá trị bản thân mình, buông bỏ đi ý chí tiến thủ của mình, mà là ngược lại. Một người càng có ý chí tiến thủ thì càng hiểu được giá trị của sự tu dưỡng tâm tính, hiểu được giá trị của sự khiêm nhường. Khi gặp cảnh đường chật, ngõ hẹp nhường người một bước, có thể vì người mà suy nghĩ, thì đó lại chính là cảnh giới của người nhìn xa trông rộng.

Khiêm nhường cũng là cách giúp bản thân thoát khỏi dục vọng danh lợi và tham lam. Mà một người có thể đứng ngoài danh lợi, khi đó họ sẽ có thể nhìn được càng cao, hiểu được rộng hơn những người khác. Người chịu cúi thấp mình hơn người khác không hẳn đã là người chịu thiệt. Họ là những người hiểu rõ bản thân mình, là người biết cách dựa vào chính thực lực của mình mà đi lên. Họ hiểu rõ, làm người thì càng ung dung điềm đạm sẽ càng được đi xa thêm…

Người có thể giữ được đức tính khiêm nhường, đôn hậu, điềm tĩnh cũng như biển lớn, có thể dung nạp trăm sông nghìn suối, bất luận nước trong hay đục. Nước chịu mình ở chỗ thấp mà không tranh giành nhưng lại có thể dung nạp được vạn vật, nuôi dưỡng vạn vật. Biển lớn chịu mình thấp hơn sông suối nhưng nào ai dám phủ nhận sự thâm sâu của biển?...

Vậy nên, đừng bao giờ tự mãn, kiêu căng, cũng đừng bao giờ tự cho mình là “bậc cao nhân, thức giả” mà nên biết điều nuôi dưỡng cho mình một sự cao quý từ chính phẩm chất khiêm nhường và đẩy lùi sự hèn mọn. Có câu “Nước càng sâu càng tĩnh, người càng hiểu biết nhiều càng khiêm nhường” cũng chính là ý này vậy…”

Với tựa đề “Người Đi Trên Mây” của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, trong tác phẩm không liên quan đến “Bệnh Tưởng” nhưng trở thành 4 chữ ví von khi nói đến ai mang nặng mặc cảm tự tôn. Nếu người nào đó nổ sảng cũng là nhân vật “Người Đi Trên Mây”.

Bài thơ Đừng Tưởng của nhà thơ Bùi Giáng qua thể thơ lục bát khá dài với triết lý nhân sinh, với 2 câu lục bát tựa như ca dao trong dân gian Việt Nam:

“Đừng tưởng không nói là câm.

Không nghe là điếc, không trông là mù…

Đừng tưởng có của đã sang.

Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây…

Đừng tưởng giàu hết cô đơn.

Cao sang hết ốm, tham gian hết nghèo…

Đừng tưởng trong lưỡi có đường,

Nói lời ngon ngọt mười phương chết người…

Đừng tưởng cứ giỏi là hay,

Nhiều khi thất bại đắng cay muôn phần…

Đừng tưởng quan chức là rồng,

Đừng tưởng dân chúng là không biết gì.

Đời người lúc thịnh, lúc suy,

Lúc khỏe, lúc yếu, lúc đi, lúc dừng.

Bên nhau chua ngọt đã từng,

Gừng cay, muối mặn, xin đừng quên nhau.

Ở đời nhân nghĩa làm đầu,

Thủy chung sau trước, tình sâu, nghĩa bền.

Ai ơi, nhớ lấy đừng quên”

Bài thơ nầy có vài dị bản, không rõ bài thơ nầy xuất hiện lúc nào, ở đâu nhưng sau khi nhà thơ Bùi Giáng qua đời, ở trong nước có người tự nhận là tác giả của bài thơ Đừng Tưởng sáng tác năm 1992 có giấy chứng nhận của Cục Bản Quyền Tác Giả thuôc Bộ Văn Hóa, Thể Thao & Du Lịch ngày 5/10/2015 và đăng trên báo đã gây xôn xao trong dư luận. Theo tác giả (?) bài thơ nầy cho biết “Nhiều năm qua vẫn không ngừng tìm kiếm tập bản thảo 50 bài thơ bị thất lạc. Trong số đó, chỉ còn giữ bản nháp và phục hồi được hơn 20 bài và có nguy cơ ‘mất vĩnh viễn’ hơn một nửa tác phẩm còn lại vì cái ‘tật’ rất quen của nhiều người sáng tác thơ là không bao giờ nhớ nổi thơ mình!”

Năm 2016, lại có tác giả khác lên tiếng: “Tôi khẳng định bài thơ Đừng Tưởng không phải do ông… sáng tác. Tôi có đầy đủ bằng chứng về thời gian để chứng minh tôi đã viết ra 20 câu thơ trong bài thơ Đừng Tưởng mà ông… ‘đăng ký’ quyền tác giả”. Bài thơ Suy Ngẫm chỉ có 16 câu đưa ra để giành lại bản quyền…

Với tôi, coi như chuyện ruồi bu nên không để tên. Với bài thơ Đừng Tưởng, hay, thú vị nhưng tại sao không phổ biến trên báo, trên internet… mà đợi đến 13 năm sau (1992-2015) chỉ viết nguyệch ngoạc bài thơ trên tờ giấy gởi đến bộ, ký bản quyền, lộng khung. Thật vớ vẩn.

Ông Nguyễn Thanh Hoài - người giữ gìn di cảo của Bùi Giáng - cho biết trước đây đã có vài người hỏi ông Đừng Tưởng có phải là thơ của Bùi Giáng không nhưng ông không chắc, vì Bùi Giáng để lại quá nhiều thơ và đã có nhiều trường hợp gán tên ông vào những bài thơ không phải do ông sáng tác từ thời ông còn sống.

Trong bài viết Nghi Vấn Quanh Bài Thơ Đừng Tưởng Của Bùi Giáng, tác giả Nguyễn Ngọc Chính đề cập nhiều chi tiết và kết: “Chỉ tiếc một điều, thi sĩ Bùi Giáng tài hoa của chúng ta không còn hiện diện trên cõi đời này để lên tiếng giữa những tranh cãi về quyền tác giả của một bài thơ!”.

Tội nghiệp nhà thơ Bùi Giáng, tài hoa nhưng đau khổ, lận đận cả một đời trong cõi ô trọc nầy, khi rũ bỏ quần áo Cái Bang “Sài Gòn Chợ Lớn rong chơi. Đi lên đi xuống đã đời du côn!” ra đi bên kia thế giới… còn có người tranh chấp bài thơ. Thế mới biết “ở chốn nhân gian” xô bồ điều gì cũng có thể xảy ra, nhất là những người bệnh tưởng. Với bản nhạc thì “cầu chứng” để giữ tác quyền nhưng với bài thơ thì có lẽ chỉ bài thơ Đừng Tưởng!

*

Trong những lần trò chuyện với bằng hữu, có người lên tiếng phán ông nầy, ông kia là chủ nhân “kho đạn Long Bình” mang từ trong nước ra hải ngoại… Nghe ông nói về cái tôi từ những nhân vật tiếng tăm trong chính giới Sài Gòn đến vũ trường, vũ nữ… nghe mà ớn lạnh! Với loại người “Người Đi Trên Mây” để rồi “Nổ Như Tạc Đạn”… nổ tiều, nổ sảng, nổ banh xác pháo, với lão ông đã từng trải qua, kinh nghiệm coi như nhân vật Xuân Tóc Đỏ, chỉ có vài lão bà bản tính chân thật, nhẹ dạ mới tin!

Trước đây, có ông bạn từ Paris sang Little Saigon chơi, ông nói Paris như trong lòng bàn tay ông, nơi nào ăn chơi, giải trí đều nói vanh vách. Tôi hỏi Trạch Gầm thì được biết, nó lái taxi hơn hai thập niên.

Ngày nay ở trong nước, bệnh nổ trở thành “dịch nổ” nhan nhản trong nhà ngoài phố khoe khoang đủ thứ trên đời, thượng vàng hạ cám! Không nổ bất thành nhân… nhưng là nhân vật quái gỡ như Đào Cốc Lục Tiên.

Hai câu nói để đời: “Người biết ít thường nói nhiều, trong khi người biết nhiều thường nói ít” (Jean Jacques Rousseau”. “Cái vỏ rỗng tạo ra âm thanh lớn nhất” (William Shakespeare).

Người xưa khuyên rằng: “Biết thì thưa thốt, không biết dựa cột mà nghe” nhưng những kẻ đã sống chết với bệnh nổ thì chẳng biết hổ hẹn với lời khuyên chân chính.

Giữa chốn nhân gian, “Những ai mắc phải bệnh này cho họ có cơ hội để tu sửa” như câu nói của cô ca sĩ có lần chia sẻ khi nghe vài người phê phán… Nữ giới dễ tính hơn nam giới, đôi khi vì tế nhị nên cảm thông. Nhưng bệnh nổ cũng như bệnh tưởng, trở thành bệnh kinh niên thì không có liều thuốc!

 

Little Saigon, 6/2025

Vương Trùng Dương

(Tác giả gởi)

 

Comments

Popular posts from this blog

Bài trăm năm - Trần Yên Hòa

Mẹ đi về phía hoàng hôn - Trần Yên Hòa

Truyện cực ngắn - Mã Lam