Tưởng Nhớ Nhà Văn Phan Lạc Tiếp - Vương Trùng Dương

 PhanLacTiep

 

 

Trong bài viết “Chiến Hữu” Chu Bá Yến & Bia Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam Miền Nam ở Florida vừa qua, tôi ghi: “Giữa thập niên 1990’ tôi quen với anh Trần Đình Liệu qua vài người bạn gốc Huế. Năm 2008 tôi làm việc cho tờ nhật báo Saigon Nhỏ (hệ thống SGN có tuần báo SGN, nguyệt san Tân Văn, nguyệt san Chiến Sĩ Cộng Hòa). Trong dịp đi chơi với anh Trần Đình Liệu, có anh Trần Trọng Hải, lúc đó chị Hoàng Dược Thảo nói với tôi tìm người nào giỏi Anh văn để dịch tin tức, và tôi giới thiệu anh Trần Trọng Hải.

 <!>

 

Qua anh Trần Trọng Hải, tôi quen và giới thiệu các tác phẩm của nhà văn Tam Giang (Hoàng Đình Báu), nhà văn Vũ Thất (Võ Văn Bảy)… Ngoài ra với tờ Chiến Sĩ Cộng Hòa nay bước sang năm thứ 18, tôi đảm trách với vai trò Chủ Bút. Và sự hân hạnh với tôi trong ngành CTCT lại “có duyên” với các cây bút nổi danh trong Khóa 11 Đệ NHất Bảo Bình. Với tờ báo nầy tôi đã đăng các bài viết của anh Khóa 11 Đệ Nhất Bảo Bình vào đầu thập niên 1960’: Trần Đỗ Cẩm, Vũ Hữu San, Phan Lạc Tiếp… Và, cũng từ đó với cái “duyên” với anh Chu Bá Yến, trước đây tờ Florida Việt Báo thường đăng bài của tôi và anh gửi báo biếu nhưng tôi cảm ơn anh và đừng bận tâm gửi báo.

Với nhà văn Phan Lạc Tiếp qua những trang hồi ký của anh và những tác phẩm của anh được phổ biến trong mục Văn Nghệ trên tờ Chiến Sĩ Cộng Hòa. Qua các tác phẩm và bài viết, anh ghi lại suốt quãng đời của anh trong quân ngũ và năm 1980, cùng giáo sư Nguyễn Hữu Xương thành lập Uỷ Ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển.

Thư Gửi Bạn Bè của nhà văn Phan Lạc Tiếp nói về quãng đời binh nghiệp:

Thưa các bạn Bảo Bình,

Đơn vị đầu tiên của tôi sau khi ra trường là HQ-09… Tôi ở đơn vị này khá lâu, 18 tháng, đảm nhận từ chức vụ Sĩ Quan Ẩm Thực rồi lần lượt xử lý Hạm Phó. Rời HQ-09, về Phòng Tổng Quản Trị mấy tháng, rồi đổi xuống Giang Đoàn 21, tại Mỹ Tho… Rời Mỹ Tho sau một năm hoạt động, chạm mặt với nhiều nguy nan, tôi được gọi về làm Trưởng Đoàn Tâm Lý Chiến Lưu Động, đến hầu như hết các đơn vị HQ. Sau đó được biệt phái đi tàu biển của Nha Hỏa Xa, 2 năm. Trở lại HQ, được Đại Tá Nguyễn Văn Ánh xin BTL/HQ cho tôi xuống Vùng 4 Sông Ngòi làm trưởng khối CTCT. Ở đây một năm tôi đi Mỹ lãnh HQ-504, do Thiếu Tá Phan Phi Phụng làm Hạm Trưởng… Tại đây, bạn cùng khóa có Đinh Mạnh Hùng làm Hạm Phó. Hùng đổi đi, tôi làm Hạm Phó, đi 16 chuyến chở đạn dược và vũ khí cho Nam Vang, và chở kiều bào bị nạn cáp-duồn từ Cam Bốt về. Sửa soạn lấy tàu dầu thì được công điện của Văn Phòng Tư Lệnh Hải Quân: “Gửi ngay HQ Đại Úy Phan Lạc Tiếp về trình diện tân đáo BTL/HQ. Lý do cho biết sau”. Trình diện Tư Lệnh HQ hôm mồng 4 Tết năm 1971, và được chỉ định làm Trưởng Phòng Tâm Lý Chiến BTL/HQ. Ở đây 2 năm, rất bận rộn và nhiều phiền phức, tôi xin đi học lớp Tham Mưu Trung Cấp. Sau khóa học được đổi xuống làm Hạm Trưởng HQ-601, 18 tháng, quá dài, và giao tàu cho HQ Đại Úy Trần Văn Chánh, trưởng nam của Đề Đốc Trần Văn Chơn, Tư Lệnh HQ vào cuối năm 1974. Theo đề nghị của Phòng Tổng Quản Trị, tôi sẽ đổi xuống làm Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ HQ Năm Căn “Cho phù hợp với cấp bậc Trung Tá thực thụ mà đương sự sẽ lên theo danh sách thường niên trong năm 1975”, nhưng Tư lệnh HQ đã giữ tôi lại Sài Gòn ‘để cho tiện, khi cần viết lách gì…’. Do đó tôi được thuyên chuyển về Khối Thanh Tra. Nhờ đó, vì không có trách nhiệm gì cụ thể như một Đơn Vị Trưởng, tôi đem được vợ con di tản trên tàu HQ-502 của anh Nguyễn Văn Tánh, một con tàu hư hỏng, chỉ còn một máy, đang sửa chữa, với hơn 5000 người.

Tại hải ngoại tôi đã cùng gia đình, các bạn cùng khóa, định cư tại Salt Lake City, Utah. Ở đây đúng một năm, gia đình tôi dọn về San Diego, cho gần thân nhân bên bà xã tôi, và bắt đầu lao vào cuộc sống để nuôi gia đình. Tôi đã làm rất nhiều nghề, lúc thì cổ xanh, lúc thì cổ trắng, viết ra thì sẽ dài lắm. Có lúc tôi làm trong hãng đóng tàu Nassco tại San Diego, là Salaried Foreman, lương khá cao. Nhằm khi xem hệ thống ống, bàn tay trái của tôi bị miệng ống sắt kẹp vào thành tàu, làm đứt 2 ngón tay. Tôi nằm nhà trên 3 năm để điều trị, chờ 2 ngón tay liền lại với 70% lương. Một cách tình cờ, đây là lúc mà Ủy Ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển, hợp tác với các tổ chức quốc tế, như Medecins du Monde, Cap Anamur và sự hỗ trợ của nhà tỷ-phú Andre Gills, đem tàu ra biển vớt thuyền nhân. Tổ chức này do Giáo Sư Nguyễn Hữu Xương làm chủ tịch, tôi đã đem chút hiểu biết của Hải Quân, và khả năng thông tin, báo chí vào công tác này. Những tin tức về cảnh huống của thuyền nhân do tôi viết và phổ biến, đã được cộng đồng Việt Nam đáp ứng mạnh mẽ và nồng nhiệt hỗ trợ. Nhờ đó đã có 3103 đồng bào được cứu vớt giữa biển khơi, do các con tàu được bảo trợ, hợp tác của ủy ban này. Những thuyền nhân này đã được các quốc gia đệ tam tại Âu Châu đón nhận và vinh danh là những Chiến Sĩ của Tự Do.

 

Vietnamese Ebooks ...

 

Riêng về hoàn cảnh gia đình, bà xã tôi mở một tiệm mạng quần áo (Reweaving), một nghề đòi hỏi sự cẩn thận, tinh vi, nên lợi nhuận đều hòa cho gia đình là do bà xã tôi kiếm được. Bốn đứa con tôi, một trai 3 gái, học hành bình thường, xong đại học, mỗi đứa đều có một nghề vững vàng. Hai cháu đầu đã có gia đình, cháu thứ ba đương sửa soạn làm đám cưới. Chúng tôi mới có một cháu ngoại, 7 tuổi. Tôi đã đến tuổi về hưu, nhưng sợ ở nhà buồn, dễ đau ốm, nên vẫn đi làm. Sở làm gần nhà nên cũng nhàn nhã, thuận tiện.

Bên cạnh những nét chính yếu trên, ở bất cứ hoàn cảnh nào, tôi đều ghi và viết lại những kinh nghiệm về cuộc sống của mình. Nhờ đó tôi đã xuất bản được 4 cuốn sách, đa số là Bút Ký. Cuốn Bờ Sông Lá Mục, viết về những ngày hoạt động ở trong sông, cuốn Nỗi Nhớ viết về nỗi khó khăn, bi thảm của con tàu Thi Nại, HQ-502, do anh Tánh làm Hạm Trưởng, và những ngày ở trại tỵ nạn. Cuốn Cánh Vạc Lưng Trời (truyện), ghi lại cảnh huống của người Việt trên đường vượt biển, và trong thời gian chúng ta còn bơ vơ xa lạ trên đất tạm dung. Cuốn Quê Nhà 40 Năm Trở Lại, như tên gọi, tôi đã ghi lại những cảm xúc của mình trước những điều tôi đã thấy sau 40 năm về thăm lại quê hương miền Bắc vào năm 1994.

Những cuốn sách của tôi, như đã nói, thuộc thể Ký, viết về những người thực, việc thực mà tôi đã gập, đã trải qua. Như tất cả chúng ta, dù muốn hay không, chúng ta đã lớn lên và bị cuốn hút vào chiến tranh. Xã hội chúng ta, đất nước chúng ta, theo tôi, là nạn nhân của thời cuộc, với tất cả những oan trái, tang thương, chia lìa, khốn khổ. Bởi thế, những cuốn sách của tôi, tuy viết về hoàn cảnh của mình, nhưng đồng thời cũng đã phản ảnh một phần nào xã hội mà chúng ta đã sống. Có lẽ vì thế mà cuốn bút ký Bờ Sông Lá Mục tìm thấy trong Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ, được xếp vào loại tài liệu chiến tranh.

Trong cuốn Tổng Quan 20 Năm Văn Học Miền Nam của nhà văn Võ Phiến cũng đề cập tới cuốn sách nhỏ này của tôi và in lại một bài tiêu biểu. Giáo sư Nguyễn Đình Hòa đã giới thiệu cuốn Cánh Vạc Lưng Trời (Anh Ngữ) trong tập san của Đại Học Oklahoma số mùa thu năm 1993. Các cuốn khác của tôi cũng được giáo sư Tiến Sĩ Phạm Cao Dương dùng làn tài liệu tham khảo giảng huấn về văn chương và chiến tranh Việt Nam (The Vietnamese American Experience) tại Đại Học UCLA và UCI. 

 

Tưởng Nhớ Nhà Văn Phan Lạc Tiếp

 

 

Riêng cuốn Quê Nhà 40 Năm Trở Lại được đón nhận rộng rãi nhất. Nhiều báo chí và các vị thức giả đã nói đến cuốn này. Nhiều báo chí tại hải ngoại đã lần lượt in lại.

Tôi được sinh ra và lớn lên tại miền quê, tỉnh Sơn Tây, thuộc trung du Bắc Việt. Hình ảnh Ông Giáo Làng là mộng ước của tôi hồi nhỏ. Song vì thời cuộc , vì chiến tranh đã khiến tôi phải rời bỏ làng quê để ra Hà Nội sống. Với nhiều dang dở, tôi vừa đi làm vừa học. Khi biết mình có đôi chút khả năng về văn-chương và triết học, tôi muốn trở thành Giáo Sư Trung Học. Ở Sài Gòn tôi theo học Văn Khoa, nhưng cũng ghi tên bên Luật Khoa (hàng ngày ngồi học bên cạnh Trung Tá Trần Văn Chơn, tức Đề Đốc Trần Văn Chơn sau này).

Sau tôi bỏ Luật, chỉ học bên Văn Khoa mà thôi. Chứng chỉ Dự Bị tôi đỗ với số điểm khá cao. Mộng là nhà giáo của tôi đã gần, nhưng chiến tranh đã kéo tôi vào đường quân ngũ mà tôi rất chán, dù tôi rất thương sót và cảm phục những hy sinh to lớn của người lính. Nhưng cuộc chiến mỗi lúc mỗi thêm khốc liệt. Hoàn cảnh mỗi lúc mỗi thêm khó khăn. Tuổi đời mỗi lúc mỗi nhiều, lại vợ con một gánh, tôi không có cơ hội hoàn tất văn bằng Cử Nhân Văn Khoa. Rồi cuộc chiến tàn với bao nỗi ê chề đau đớn. Rời VN tôi là một người dang dở, bắt đầu lại cuộc đời bằng con số không đúng nghĩa…

Đặc biệt nhờ HQ, tôi và gia đình tôi đã thoát được một đoạn đời, nếu kẹt lại ở VN, chắc là chúng tôi đã vô cùng khốn khổ…”

*

Nhà văn Phan Lạc Tiếp đã từ trần tại San Diego, lúc 3g30 sáng ngày 1 tháng 8 năm 2025, hưởng thọ 93 tuổi. Phan Lạc Tiếp sinh năm 1933 tại Sơn Tây, Bắc Việt. Di cư vào Nam năm 1954 sau Hiệp Định Genève. Đêm 29 tháng 4 năm 1975, Phan Lạc Tiếp cộng tác với Hạm Trưởng Dương Vận Hạm HQ502 điều động con tàu này rời Sài Gòn, đem theo hơn 5000 người gồm quân nhân và đồng bào ra biển giữa cơn hấp hối của Sài Gòn.

Về tiểu sử của anh như đã đề cập trong Thư Gửi Bạn Bè cùng khóa. Trong bài viết khác: “Tôi bỏ miền Bắc, bỏ quê hương, bỏ Hà Nội vào Nam. Tôi đã thấy gì khi chạm trán với Sài Gòn, rồi sống với Sài Gòn trên 20 năm...

Từ khi người Bắc di cư vào, những dãy nhà cất vội gọi là cư xá rẻ tiền, nhưng lại có cái tên đẹp đẽ đầy hoài niệm cố đô là cư xá Thăng Long, được xây cất phía trước lối vào trường đua Phú Thọ, biến dần khu này thành một vùng an ninh, sầm uất, dành cho những gia đình công chức từ ngoài Bắc di cư vào cư ngụ…

Lúc ấy những năm sau 1954, miệt Thị Nghè là cửa ngõ ngoại ô của Sài Gòn. Xa lộ Sài Gòn chưa có. Đường Hàng Xanh là biên giới của an ninh thủ đô, chạy dài tới Phú Nhuận, rồi đi qua Bộ Tổng Tham Mưu, rẽ vào lối đi phi trường Tân Sơn Nhất. Từ Hàng Xanh nhìn ra Đồng Ông Cộ ngút ngàn lau sậy và dừa nước…”

Sau khi tốt nghiệp sĩ quan Khóa 11 Đệ Nhất Bảo Bình

“Năm 1965 chúng tôi mới lập gia đình, chồng là quân nhân, vợ là cô giáo, lương lậu ít ỏi. Sau đám cưới bình thường, bà con xúm lại, anh chị tôi cho thêm, chúng tôi mua được căn nhà nhỏ bé này làm tổ ấm đầu đời. Nhà tôi sát vách với nhà quái kiệt Trần Văn Trạch nên chúng tôi chung nhau bắt đồng hồ nước. Hai nhà thân nhau như một. Những buổi trưa ngày nghỉ, nằm hưởng cái lười biếng vắng lặng, chúng tôi thấy tiếng hát của ông Trạch vẳng qua thật hay “Chiều mưa biên giới anh đi về đâu…”

Tiếng hát ngọt như lời ru, mượt mà như những sợi tơ trời nhẹ nhàng trôi trên vùng đồi núi nào xa, mang nỗi cô đơn, nhung nhớ của người lính xa nhà. Tiếng hát ấy khác xa, khác hẳn những bài hát vui nhộn hài hước của ông trong các màn phụ diễn trước những buổi chiếu phim. Buổi tối gió mát, những cây dừa nước bên nhà lao xao, lấp loáng ánh trăng. Chúng tôi ra ngồi ngoài hàng hiên. Ông Trạch cũng ra hàng hiên. Ông quấn quanh mình tấm saron, phô mảng ngực trần. Ông nhẹ nhàng hỏi “Tình thế mỗi lúc mới thêm khó há, trung uý.” Tôi thì hỏi ông “Sao ông không hát những bài ông vẫn hát ở nhà. Hay quá mà.” Ông bảo “Thôi, để anh em họ làm ăn. Mình đóng vai hài quen rồi, chẳng ai cạnh tranh.” Khi tôi đeo lon thiếu tá, làm việc tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân, được phát cho cái xe jeep cũ thì hai con ông Trạch và hai con tôi mỗi sáng đều leo lên xe đi học ở trường Bà Phước, gần chợ Tân Định. Hai con tôi được anh chị (con ông bà Trạch) săn sóc rất kỹ. Đối với lối xóm, người ta bảo “Ông bà còn trẻ mà có những bốn cháu, sắp lớn rồi”…

Sau biến cố Mậu Thân 1968, tôi dọn vô khu cư xá Hải Quân, nên phút chót, khi tàn cuộc chiến, theo tàu đi được và định cư ở Mỹ. Tôi không biết ông Trạch đã thoát đi được như thế nào, nhưng những năm sau ngày 30 tháng 4, tôi biết qua báo chí và bè bạn là ông Trạch ở Paris có một mình, lang thang buồn bã vì thương nhớ vợ con còn kẹt lại quê nhà. Mãi hơn 10 năm sau, trong dịp đại diện cho Uỷ Ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển qua Pháp đón tiếp thuyền nhân, vợ chồng tôi mới có dịp gặp lại gia đình ông bà Trạch ở bến cảng Ruen. Nói sao cho hết mừng vui, kỷ niệm của những ngày xa cũ. Sau đó ông Trạch qua Mỹ nhiều lần, chúng tôi lại có dịp gặp nhau. Tôi nhắc tới Ban Gió Nam, từ Sài Gòn ra Hà Nội, đâu như năm 50, 51 gì đó. Chủ lực là Ban Hợp Ca Thăng Long, nhưng có sự góp mặt của ca sĩ Trần Văn Trạch…

Sau bữa cơm hội ngộ này ông trở lại Paris, lâm bệnh và mất. Chúng tôi có gọi điện thoại qua Paris phân ưu và chia buồn cùng bà Trạch và các cháu. Mấy đứa con ông, khi nhỏ, hàng ngày leo lên xe jeep của tôi, cùng các con tôi đi học trường Bà Phước ở Đakao, giờ cũng lớn hơn tuổi tôi ngày cũ khi hai nhà ở cạnh nhau. Giờ các con tôi cũng đã là những người trưởng thành, ở riêng. Một quãng đời Sài Gòn mới đó mà đã xa, quá xa, mù mịt…

Tác phẩm Phan Lạc Tiếp ấn hành:

Bờ Sông Lá Mục, bút ký 1969. Tái bản Văn Nghệ, 1998.

Cánh Vạc Lưng Trời, tập truyện. Mõ Làng, 1991.

Một Thời Oan Trái, ký sự. Tiếng Quê Hương, 2011.

Nỗi Nhớ, bút ký chiến tranh. Mõ Làng, 1995.

Quê Nhà, Bốn Mươi Năm Trở Lại, bút ký. Mõ Làng, 1995.

Vớt Người Biển Đông. San Diego, Ủy Ban Cứu Nguy Giúp Người Vượt Biển?, 2018

To Distant Shores. Huan Phan, Tiep Phan. Phan Lac Press, 2022.

Trong phạm vi bài nầy chỉ đề cập đến tác giả, tác phẩm Phan Lạc Tiếp. Tôi thích những bài viết của anh về Hà Nội xưa và nay. Quê vợ tôi ở Hà Nội, năm 1973 bố vợ lên Đà Lạt thăm cháu ngoại. Cụ có trí nhớ rất tốt như nhạc sĩ Nguyễn Hiền nên kể cho tôi biết và viết bài Hà Nội, Giấc Mơ Mịt Mù trên đặc san Ức Trai của Trường Đại Học CTCT… (tưởng chừng người con Hà Nội năm xưa). Ở Mỹ, tôi đã viết nhiều bài liên quan đến thơ, nhạc của Hà Hội. Tôi và vợ mong có dịp trở lại Hà Nội nhưng tình trạng sức khỏe vợ không thể đi phi cơ nên cho đến nay vẫn là giấc mơ mịt mù!...

Với các tác phẩm của nhà văn Phan Lạc Tiếp được nhiều cây bút giới thiệu, nay trích hai bài biết đề cập tổng quát.

Trong bài Phan Lạc Tiếp & Quê Hương Việt Nam của Nguyễn Thiên Thụ:

“Bờ Sông Lá Mục là bút ký chiến tranh mà Phan Lạc Tiếp đã viết bằng một tấm lòng chân thành. Ông đã chân thành khi viết, chân thành chiến đãu và chân thành khi giỏ những giọt lệ khóc những đồng đội nằm xuống ( Cái chết của một người lính, Niềm ân hận của ngôi sao).

Bờ Sông Lá Mục cũng là cái nhìn của tác giả về chiến tranh. Chiến tranh đã gây ra sự cô đơn của những người vợ trẻ, con thơ, mẹ già mong đợi... Ruộng Vườn Bỏ Hoang, Sự Tang Thương, Tàn Nhẫn Vì Chiến Trận (Rừng Bên Kia Sông).

Xuyên qua Bờ Sông Lá Mục, chúng ta thấy tinh thần chiến đãu anh dũng, tinh thần đồng đội thắm thiết của quân đội Việt Nam, cùng lòng nhân hậu của tác giả vốn là một sĩ quan đã sát cánh chiến đấu bên các đồng đội. Toàn bộ tập truyện mang tính cách nhân bản, nói lên cái phi lý của chiền tranh. Chiến tranh không biên cương, chiến tranh đã tạo ra các vùng xôi đậu, chiến tranh đã đến từng xóm làng, vào ngay trường học, và vào từng mái gia đình khiến cho anh em giết nhau (Mái Tóc Đời Người, Vòng Tay Của Đất).

Chiến tranh không phải chỉ là phục kích, là hành quân mà còn là mưu kế, cạm bẫy thâm độc, ai không kinh nghiệm thì dễ chét như chơi (Những Con Trùng Trong Lòng Đất Mẹ). Bờ Sông Lá Mục là cuộc tranh giành cuộc sống giữa thiện và ác, giữa cộng sản và quốc gia. Phan Lạc Tiếp cho ta biết trong cuộc chiến tranh quốc cộng, một lớp người phải đương đầu thường xuyên với cộng sản mà lại phải sống trong cảnh khốn khổ, và gần như bị chính quyền bỏ rơi. Đó là những nghĩa quân. Phan Lạc Tiếp đã thuật lại những điều tai nghe mắt thấy trong một cuộc đi thăm các đồn xa xôi bằng giang đỉnh…

Ở Mỹ ông vẫn tiếp tục sáng tác: Nỗi Nhớ, Cánh Vạc Lưng Trời, Quê Nhà Bốn Mươi Năm Trở Lại .

Cánh Vạc Lưng Trời là một tập truyện ngắn, Mõ Làng, Hoa Kỳ, xuất bản năm 1991. Truyện đầu tiên, Tình Sông Nghĩa Biển và Đêm Dài là một vài nét chấm phá về những ngày cuối cùng của miền Nam, về kẻ ở người đi, và tình yêu, một tình yêu lỡ làng, đau khổ nhưng cao thượng. Tờ lịch cũ mang chủ đề tù đày, tình yêu xót xa , và cuộc sống xứ người. Nửa đêm trăng sáng nói về cuộc sống vất vả nơi xứ người, về hành trình trên biển cả với xác con lạnh giá. Người bạn viết về tù đày, vượt biển, đói, khát, chết chóc trên ghe. Cánh Vạc Lưng Trời là tình yêu Việt Mỹ éo le nhưng rất đẹp, rất cao cả. Chiếc áo của thầy tôi, Người đàn bà xa lạ là những kỷ niệm về gia đình, về quê hương. Ta có thể nói chủ đề chính của toàn bộ tập Cánh Vạc Lưng Trời là cuộc sống nơi quê người đất khách, tâm trạng lưu đày của những người Việt thất gia vong quốc.

Nỗi Nhớ cũng là tập bút ký gồm 17 bài viết, dày 190 trang, Mõ Làng xuất bản tại Hoa Kỳ 1995. Cũng như hai quyển trên, là những bút ký về chiến tranh Việt Nam. Chuyến công tác cuối cùng đã cho ta biết tình hình của một đơn vỉ hải quân tại đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và quân lực Việt Nam nói chung vào thời gian 1975. Đó là tình trạng thiếu hụt tiếp liệu (Mỹ đã cắt viện trợ) mà mức cung chưa được 40% (15) và đặc biệt ở những nơi nằm trong lòng địch, quân ta bị áp lực nặng nề!...

Bất cứ trang nào, chúng ta cũng thấy lo âu, buồn rầu, sợ hãi và chết chóc tràn ngập. Phan Lạc Tiếp đã viết về tâm trạng ông: Tôi nhớ đến các bạn bè tôi, mỗi đứa một nơi, đứa binh chủng này, đứa binh chủng khác, it khi gặp lại được nhau. Đôi khi tưởng quên, bất ngờ thấy tên bạn mình hiện lên tối om ở những hàng cáo phó!...

Chuyến công tác cuối cùng, Sài Gòn Trong Cơn Hấp Hối, Giã Từ Sài Gòn, Chuyến Hải Hành Cuối Cùng là những trang sử về những ngày cuối cùng Sài Gòn thất thủ. Tất cả đều mang tính chất bi đát. Người ta chen lấn nhau lên tàu, làm cho một đứa trẻ rớt xuống sông. Con tàu của Phan Lạc Tiếp khi sửa soạn ra khơi thì lại trục trặc đủ thứ: đã lái tay rồi, đã khốn nạn rồi, lại còn đứt dây cable nữa. Cứ lừng khừng đây, nó pháo cho một trái là ‘tan hàng’ gấp!

Kẻ ở người đi, một sự cách biệt trong lòng người: Tôi thấy giữa chúng tôi, các người ở trên tàu và anh em đứng trên bờ kia có cái gì xa lạ lắm rồi. Lạnh lùng lắm rồi.

Con tàu của Phan Lạc Tiếp ra đi giữa tiếng đại bác, giữa lửa cháy va giữa tang thương, nhưng cuối cùng đã tới bến bờ tự do! Được tàu Mỹ cứu, được gặp các đồng đi, đuợc đến căn cứ Subic Phi Luật Tân đáng lẽ là một niềm vui, nhưng việc hạ quốc kỳ Việt Nam để giao tàu cho Mỹ lại là một bi kịch báo hiệu chấm dứt một chế độ, một cuộc đời. Đoạn này rất cảm động:

Lời hô “Hạ kỳ”vừa dứt đúng với kim đồng hồ của hệ thống chỉ huy. Cờ được từ từ kéo xuống và toàn tàu lời ca vang lên “Này công dân ơi, quốc gia đến ngày giải phóng. Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống...”’ Tất cả đều hát thật to. Các quân nhân vừa chào, vừa hát, nước mắt đầm đìa. Khi bản quốc ca sắp dứt thì có nhiều người ôm mặt nức nở. Có người kêu lên “Con ơi, con ơi”! Nước mắt tôi chan hòa trên mặt. Tôi thấy mình như đi dự một đám tang về. Lá quốc kỳ được cuộn lại, và giáo sư Biển Thước đã xin được lá cơ này làm kỷ niệm. Tôi nhìn lên cột cờ trống vắng. Những dây cờ đập vào nhau lạch phạch. Tôi nhìn quanh, các bạn bè tôi, mọi người đều đầm đìa những lệ. Và lần lượt tụi tôi tháo lon trên cầu vai xuống. Có người vứt lon, vứt mũ xuống biển. Tàu trôi chậm, cái mũ cứ lừ đừ nổi trên mặt nước như hình thù một người chết trôi, bập bềnh, bập bềnh xa dần ở sau lái tàu...

Quê Nhà Bốn Mươi Năm Trở Lại viết xong tháng 2-1995, xuất bản 1995, tái bản 1998, có thêm và sửa chữa, dày 310 trang. Tác phẩm này mang chủ đề tình quê hương. Tác giả đã trở lại Việt Nam ngày 2/4-1994 thăm quê Sơn Tây và ghi lại những quang cảnh Sơn Tây nói riêng và Việt Nam nói chung, cùng cảm tưởng và tâm trạng của tác giả. Tác giả nguyên là một sĩ quan hải quân, khi toan tính về thăm quê hương sau 40 năm xa cách, tuổi đã ngoài 60, lòng cũng có nhiều lo ngại nhưng ông đã ‘sẵn sàng đón nhận những bất trắc có thể xảy ra’!

Quê Nhà Bốn Mươi Năm Trở Lại của Phan Lạc Tiếp mang tính cách tình cảm, trong đó mạnh nhất là tình yêu quê hương, làng xóm, bạn bè. Về quê nhà, Phan Lạc Tiếp đã thăm Hồ Gươm, Văn Miếu, nhìn thấy núi Tản, thăm chùa Thầy. Ông cũng đã đi thăm lại mái nhà thi sĩ Quang Dũng, một người bạn thân của tác già lúc thiếu thời và thắp cho nhà thơ một nén hương. Ông cũng đã gặp được người bạn mới đầy thân mến như Hoàng Cầm. Quá khứ cũng đã trở về, ông nhớ quan Thiếu, ông cử Bình, anh Tr., cậu giáo. Nhưng cảm động nhất là khi ông về nhà cũ, gặp đầy đủ những người thân. Ngày xưa một thi nhân Trung Hoa về nhà, cả xóm ban đêm leo lên tường nhìn sang thật là cảm động, nhưng cũng không cảm ộng bằng cảnh Phan Lạc Tiếp trở lại quê hương sau 40 năm xa cách. Những anh em, họ hàng của ông đã tấp nập tới thăm, và kín đáo canh gác quanh nhà để cho hai vợ chồng ông được ngủ yên và bình yên ở nơi quê nhà vào cái lúc mà nhân tâm thế đạo chưa được thuần nhất.

Quê Nhà Bốn Mươi Năm Trở Lại mang tính cách tố cáo: Việt Minh chém, giết người trong thời kháng chiến. Chính thân phụ tác giả đã bị bắt, và các ông chú, ông bác cũng đã bị hành hạ trong bàn tay của cng sản. Phan Lạc Tiếp đã kể cho chúng ta nghe về cái chết oan ức và thảm thiết của anh Tr. nhà ở tỉnh , tản cư về thôn quê bị Việt Minh giết (Người Đàn Bà Nhan Sắc). Cái chết của anh Tr. tiêu biểu cho bao cái chết tức tưởi trong thời Pháp trở lại và Việt Minh nắm quyền:

Đến năm 1949, lúc mặt trận tràn về, cả làng hết đường chạy. Một hôm Tây về, cả làng tụ lại trong chùa. Đàn bà, con gái bôi mặt nhọ nồi, mặc áo rách ngồi quay mặt vào lưng các ông Phật. Bà già và đàn ông ở ngoài. Và Tây về thật. Chúng chỉ đi trên 10 đứa. Dẫn đầu là một tên đi. Chúng chĩa súng vào đám dân làng. Cả làng khiếp vía. Mãy ông đại diện làng, có tuổi, chẳng hiểu chúng nói gì cứ xí xa xí xô hoài. Rồi chúng đi khắp làng, bắt các thanh niên hạ các bức đại tự, các hoành phi câu đối xuống, vác ra lót trên các lỗ chữ chi trên mặt đường “để cho xe các quan đi lại”. Nhìn các bức đại tự sơn son thiếp vàng, bị xe cán lên, gia chủ và dân làng xót lắm. Có người bảo ‘Ai nói được tiếng Tây thì bảo nó ngưng. Cần gỗ thì lấy cột cờ, ván đình, cửa đình mà làm’. Ý kiến hay, và anh Tr. chồng chị B bị đảy ra để nói tiếng Tây cả làng. Chỉ sau vài câu xã giao, tên đi tây tỏ ra thông cảm, đổi hẳn bộ mặt, và bắt tay anh Tr. nói mẹc-xì’ hoài…

Ban ngày tây về. Ban đêm du kích xã còn ở lại, và xuất hiện. Họ đến nhà anh Tr. nói rất lễ độ: Ủy ban mời anh đi họp.

Và họ dẫn anh đi. Tới nơi hẹn, có vài người nữa. Trong đó có ông T. Họ dẫn tất cả đi về phía núi Sài Sơn, cách làng độ 2 km. Nơi được coi là nơi trú ẩn lý tưởng của các tổ chức kháng chiến. Nơi mà làng Thụy Khê đuợc coi là có tinh thần cách mạng cao. Đêm ấy, trước sự chứng kiến của một số người họ đọc bản tử hình anh Tr. và sai hai người dùng thừng thắt cổ anh Tr. chồng chị B!...

Quê Nhà 40 Năm Trở Lại là một tập truyện ngắn, mà hay nhất có lẽ là truyện đầu tiên Hà Nội sau 40 năm xa cách… Phan Lạc Tiếp đã viết về thực cảnh Hà Nội, so sánh xưa và nay: Ngoài những sinh hoạt ồn ào về ăn uống, Hà Nội như chưa có một sinh hoạt nào nổi bật. Hàng Đào xưa óng ả vải tơ, nay vẫn còn là một dãy phố buồn tẻ, xưa cũ và xiêu vẹo. Hàng Bạc xưa óng ánh đồ trang sức, nay cũng có vài ba cửa hiệu giữ bảng hiệu cũ, bán chút ít vàng, và đổi tiền. Phố Phúc Kiến xưa thơm lừng thuốc Bắc, nay vắng lặng. Phố hàng Vải xưa chật ứ vải và vỏ nhum nâu, nay vắng hẳn... Duy chỉ có phố hàng Mã được coi là vẫn giữa được phần nào hình ảnh cũ. Xưa bày đày hình nhân, ngựa giấy. Nay cắm nhiều lá cờ ngũ sắc bằng giấy và các cửa hàng mở cửa tấp nập khách ra vào (92).

Phan Lạc Tiếp đã viết về những cảnh sống rất thực của Hà Nội. Đây là cảnh ‘đổ thùng’ một đặc sản của Hà Nội băm sáu phố phường: Đêm cứ thế chìm dần vào yên lặng. Nếu khó ngủ, ta có thể thấy đôi lúc có tiếng xe xích lô lạch cạch chạy qua. Lâu lắm mới có tiếng xe hơi chỉ thoáng đã mất hút. Khuya nữa trong cái tĩnh mịch của đêm, là tiếng gió xì xào, tiếng lá khô đùa trên mặt dường nhựa. Thành phố cứ thế lặng đi 1, 2 giờ đêm, có tiếng đập cửa ‘đổ thùng’. Cái này thật khổ. Khổ từ phòng khách đến phòng trong. Đôi khi có khách từ’nhà quê’ ra, gia nhân, đày tớ nằm cả lối đi. Lúc ấy, ‘đổ thùng’ tới, là dậy tất cả. Nằm trên lối đi, dậy đã đành. Nằm trên sập gụ, trước tủ chè, cũng nào có ngủ được. Phu đổ thùng, họ vào rất nhanh, ra rất chóng, nhưng mùi xú uế đến khẳn đi thì đầy nhà...

Chúng ta nên biết rằng nhà cầm quyền Hà Nội như một bà già dở hơi, luôn tráo trở. Họ để cho buôn bán nhưng bất chợt một hôm đẹp trời nào đó lại cho công an bao vây, đột nhập tư gia và cửa hàng xét hỏi, tịch thu và bắt phạt, bắt giam. Người ta nay đã khôn sau vài lần bị lừa. Bởi vậy, tại hàng Mã, hay tại một vài cửa hàng khác, như hàng vàng, hoặc nơi đổi tiền, người ta không bày bán các thứ, hoặc chỉ bày vài mẫu tượng trưng, chỉ khi nào khách hỏi, và phải là khách quen thuộc, người ta mới đem hàng cất giấu từ một nơi bí mật nào đó cho khách hàng. Và khách phải đợi một thời gian, có khi vài giờ, có khi vài ngày để người bán đi lấy hàng hoặc người bán thông báo cho người sản xuất việc đặt hàng.

Với bốn tập truyện, và tất cả tác phẩm của Phan Lạc Phúc đều rõ ràng, trong sáng, đều mang hai chủ đề: chiến tranh và quê hương. Bờ Sông Lá Mục, Nỗi Nhớ xây dựng trên những kinh nghiệm chiến tranh Việt Nam. Cánh Vạc Lưng Trời là sự kết hợp giữa hai chủ đề chiến tranh và quê hương, và trong nỗi nhớ thương quê hương, còn hằn vết đớn đau của những tâm hồn Do Thái mất thiên đường cũ. Quê Nhà Bốn Mươi Năm Trở Lại là niềm vui khi về thăm Việt Nam nhưng trong đó cũng gợn lên một nỗi buồn quá khứ của quê hương khói lửa bạo tàn, và niềm đau cho một dân tc còn quá nhiều di tích của thời đại nguyên khai.

Dẫu sao, Phan Lạc Tiếp cũng đã nhận thấy nơi đây dưới lớp tro tàn vẫn sáng ngời những hòn than ấm nóng tình người, tình quê hương, tình anh em họ hàng. Những nhà thờ họ, những đình làng, những đền miếu, câu đối, hoành phi đã trở lại nơi thôn quê; và nay những áo the khăn xếp chen lẫn áo vest và cravate, và hết rồi nón cối dép râu cho dù cờ đỏ sao vàng còn bay phất phới. Phan Lạc Tiếp đã gặp nhiều may mắn trong khi một số không được phép trở về, hoặc trở về mà bị bắt, bị giết. Lò sát sanh đã rửa sạch sau mỗi sáng nhưng suốt ngày, mùi máu tanh vẫn còn vương vấn không gian. Tất cả bốn tập truyện đều mang hai tính chất.: tính chất nhân bản và tính chất tố cáo. Trong tác phẩm, Phan Lạc Tiếp đã bày tỏ tình yêu đồng đội, bạn bè, yêu anh em, làng xóm, yêu quê hương. Ông đã tố cáo cộng sản tàn ác. Ông cũng không quên tố cáo người Mỹ đã sửa soạn sẵn, làm kiệt quệ khả năng tự vệ của miền Nam (Nỗi Nhớ) bởi vì vì trước đó, các cố vấn Mỹ đã bắt các đơn vị quân đi bắn hết đạn mà sau đó không tiếp đạn mới.

Văn phong của ông thung dung bình dị phản chiếu con người nhân hậu của ông luôn nồng đượm tình người dù trong cảnh chiến tranh đen tối hay nơi quê người tuyết băng lạnh giá.

Các tác phẩm của Phan Lạc Tiếp đều là tập truyện ngắn. Mỗi tác phẩm mang một nhan sắc riêng, một thế giới riêng. Chiến tranh, di tản, quê hương là những chủ đề chính trong các tác phẩm của Phan Lạc Tiếp. Nhưng bố cục chặt chẽ nhất là tập Quê Nhà Bốn Mươi Năm Trở Lại. Mỗi chương mang hình ảnh một đoạn đường trên hành trình về thăm chốn cũ. Mỗi chương tự nó chuyên chở một vấn đề, và mỗi chương tự nó mang một bố cục toàn vẹn. Tất cả hòa hợp nhau tạo thành hình ảnh một quê hương Việt Nam được viết nên bằng một tấm lòng chan chứa yêu thương của tác giả là một nhân chứng xuyên suốt quá khứ và hiện tại…”

(Nguyễn Thiên Thụ)

Đọc Một Thời Oan Trái của Phan Lạc Tiếp của Vũ Thất - người bạn cùng khóa:

Trước tháng 4/75, Phan Lạc Tiếp có hai nghề: Nghề tay phải là đi biển và nghề tay trái là viết văn. Viết để gửi gấm những cảm nghĩ, những sự việc buồn vui của đời sông biển. Sau khi bỏ xứ qua Mỹ, ông bỏ luôn nghề tay phải cũ, sống cuộc đời mới, nghề mới. Có lúc ông được tiếng là thợ “cổ xanh”, có khi mang danh là thầy “cổ trắng”. Lại có thời gian ông làm “cổ cò” chỉ vì cứ phải luôn ngóng tìm bóng dáng những chiếc ghe mong manh trên đại dương mênh mông. Đó là thời gian ông làm ủy viên sáng lập trong Ủy ban Báo nguy Cứu người Vượt biển. Và dù trong bất cứ nghề tay phải nào, nhịp sáng tác của ông vẫn chừng mực và đều đặn, không quá nhanh cũng không quá chậm.

Hoạt động trực diện chiến đấu chống Cộng Sản trong năm năm được nhà văn Hải Quân Thiếu Tá Phan Lạc Tiếp mô tả trong quyển bút ký Bờ Sông Lá Mục”. Còn trong suốt 36 năm “lưu lạc”, ông cho ra đời 4 tác phẩm Cánh Vạc Lưng Trời (1991), Nỗi Nhớ (1995), Quê Nhà, 40 Năm Trở Lại (1995) và Một Thời Oan Trái (2011). Giữa thời buổi sách tiêu thụ giảm dần thì đây là một việc làm gây ngạc nhiên và đáng khen ngợi. Đặc biệt là quyển sau cùng do Tủ sách Tiếng Quê Hương xuất bản, dầy trên 400 trang, lại được đóng bìa cứng tuyệt đẹp.

Một Thời Oan Trái gồm 22 bài và được chia thành 2 phần. Phần 1 mang cái tựa chung là Đất Cũ Người Xưa, gồm 9 bài kể chuyện về  thời thế, tập tục và những người thân với tác giả từ thưở thiếu niên ở một làng quê miền Bắc. Phần 2 gồm 13 bài viết trong Những Ngày Lưu Lạc xứ người, trong đó ông mô tả về một số nhân vật, có người ông quen thân, có người ông biết tiếng. Nhân vật dân sự thì gồm nhà văn Võ Phiến, Nhất Linh, Nguyên Phong, Hoàng Văn Chí, Người Đàn Bà Trên Tàu 502…

Ở phần đầu Đất Cũ Người Xưa, tôi thích nhất bài Quê Ngoại. Tác giả kể về quê ngoại và trường hợp bố mẹ ông quen nhau nghe thật… dễ thương: “Mẹ tôi người bên Chàng. Làng Chàng cách làng (bố) tôi một cánh đồng nhỏ… ‘Biên giới’ hai làng, một cách cụ thể là hai con chó đá để ở hai bên cổng của hai làng. Hai con chó này cũng là nơi trẻ con hai làng tụ họp, cỡi lên mình chó để nô đùa và đánh nhau… Rồi trong một ngày Tết, làng Chàng mở hội tế Thành Hoàng, đón Xuân, có đánh cờ người ở sân đình. Mẹ tôi được chọn là quân xe, dì tôi là quân tượng. Cả hai mặc áo tứ thân, váy lụa, đội nón thúng quai thao, thắt bao hoa lý, đeo sà tích bạc ông vôi quả đào, nổi tiếng đẹp giòn rã, tươi vui. Chú Cửu tôi và thầy tôi là hai anh em con cô con cậu, cùng tuổi, ở sát nhà nhau nên thân nhau lắm… chẳng biết hai chú làm quen với hai cô thế nào, chỉ biết cô P. (tên dì tôi) lấy chồng trước, nửa năm sau là đến cô L. (tên mẹ tôi) cùng về làm dâu làng Nủa.”

 Cũng trong phần đầu, bài tôi hài lòng nhất là Tào Mạt. Tào Mạt, người cùng làng, cùng thời Phan Lạc Tiếp, có chút bà con, vừa mới lớn đã hăng say theo mặt trận Việt Minh chống Pháp. Nhưng khi mặt trận ra lệnh phá ngôi Đình uy nghi và ngôi Chùa Vĩnh Phúc của làng theo chủ trương vườn không nhà trống thì cán bộ huyện Tào Mạt ngầm ra tay ngăn cản. Ngôi Đình và ngôi Chùa được giữ nguyên nhưng Tào Mạt thì bị điều đi học tập một thời gian dài… Tác giả kể tiếp: “Năm 1950, khi cuộc chiến trở nên khốc liệt, đặc biệt Việt Minh ra mặt tận diệt những ai không phải là người của Mặt Trận, chính anh Thục (tên thật của Tào Mạt) một đêm bên bờ sông Thao, đã nói với ông anh tôi rằng: ‘Các anh đi đi, Đây không phải là đất của các anh đâu.  Đi ngay trước khi quá trễ’. Gia đình tác giả nghe lời dời về Hà Nội rồi vào Nam ngay khi đất nước phân ly. “Các anh em sau đó đều trở thành quân nhân quân đội Cộng Hòa, chống lại sự xăm lăng của quân Cộng sản, trong đó có người bạn thân, người ân nghĩa Tào  Mạt”.

Sau tháng tư 1975, Tào Mạt vào Nam tìm gặp bạn bè xưa nhưng một lần nữa gia đình Phan Lạc Tiếp đã tìm đường lánh xa cộng sản. Tào Mạt không gặp bạn nhưng “vô tình” chứng kiến sự trù phú của miền Nam, chứng kiến lòng người miền Nam giản dị bao dung, khiến Tào Mạt dần dần thấy rõ bộ mặt xảo trá,  độc ác, tham lam, bần tiện của người Cộng Sản. Những khơi dậy từ Đảng về lòng căm thù và tận lực tàn sát đồng bào ruột thịt dần dần mất hiệu lực. Khi trở về đất Bắc, Tào Mạt như tịnh khẩu, chỉ thừ người thở dài, chìm trong cơn trầm uất. Tào Mạt càng ngày càng bất mãn đến độ từ chối cả việc “trên” giao cho viết một vở chèo về “Bác” – việc làm coi như là một vinh dự đặc biệt. Sự từ chối của Tào Mạt dẫn đến kết luận của giới lãnh đạo là Tào Mạt mắc phải bệnh điên. Và Tào Mạt thà mang tiếng điên còn hơn phải mở lời ca ngợi con người đã lộ hoàn toàn bộ mặt gian xảo.

Trong những ngày buồn khổ, Tào Mạt càng nhớ những người từng đứng bên kia chiến tuyến. Rồi một ngày của năm 1992, từ nửa vòng trái đất, Phan Lạc Tiếp nhận được thư của người bạn cùng làng. Người bạn cho biết đã rời bỏ lon đại tá và “đang trải những ngày cuối cùng cuộc đời trong nhà thương vì bệnh ung thư”. Lá thư có lời tha thiết: “Các anh hãy cố mà về để anh em còn được nắm tay nhau, kẻo chần chừ thì quá muộn. Anh em ta là những con người làng Nủa, cùng uống nước giếng Bìm mà thành người, trước sau vẫn không thay đổi… Tôi cố sống để được gặp các anh. Làm gì có chuyện kỳ thị giữa những người đã thành tình thành nghĩa từ thuở còn thơ trẻ”. Là người từng trải nghiệm những phản trắc của người cộng sản, Phan Lạc Tiếp vẫn chần chừ. Mãi hai năm sau ông mới dứt khoát về làng cũ. Và đúng như bạn dự đoán: Quá muộn! Tào Mạt đã chết trước đó một năm.  Tác giả viết: “Đứng trên căn gác ở đầu làng, nơi thiết trí bàn thờ Tào Mạt… tôi thắp 3 nến hương, vái 2 vái coi như anh còn sống, mà nước mắt bỗng chan hòa”…

Ở Phần 2 của quyển sách, với tôi thì hầu hết đều rất thú vị vì những nhân vật ông nói đến đa phần là những người tôi ngưỡng mộ. Các bài viết của ông giúp tôi hiểu sâu hơn về họ. Như bài đầu tiên ông viết về nhà văn Võ Phiến, ngoài việc nêu lên nhân cách, văn tài…, ông còn ca ngợi Võ Phiến đã tinh tế vạch ra “cái dụng ý thâm sâu, ác độc của những người chủ trương cuộc chiến”…

Phan Lạc Tiếp phát biểu: “Công trình ấy để lại cho hậu thế, cho những ai muốn tìm hiểu về 20 năm sinh hoạt rất phong phú của miền Nam”. Cũng theo họ Phan, những công trình trước tác của Võ Phiến rất được thế giới trân trọng. Nhiều luận án tiến sĩ chọn đề tài Võ Phiến, mà chủ đề nổi bật trong sự nghiệp của ông là những nét bút mô tả sự quỷ quyệt của Cộng Sản và nêu bật chính nghĩa của nhân dân miền Nam. Kết luận bài viết, Phan Lạc Tiếp khẳng định: “Với tôi, Võ Phiến đúng là cây thông già mọc trên đỉnh núi, bốn mùa cây lá lúc nào cũng xanh tươi.”

Không còn lời khen nào đầy ý nghĩa và đúng đắn bằng. Thế mà mới đây lập trường chống Cộng của Võ Phiến bị đặt dấu hỏi chỉ vì một quyển sách của ông được in lại ở Việt Nam. Trước ông thì đã có sách “in lại” của Dương Nghiễm Mậu. Nhạc Vàng xưa cũng từng bị cấm ngặt mà nay trở thành nhạc thời thượng ở Việt Nam. Cá nhân tôi thì thấy đây là một biểu lộ của chính nghĩa tất thắng. Với một nhà văn bị Cộng sản kết tội “biệt kích văn hóa” hàng đầu như Võ Phiến, tác phẩm bị đốt sạch, nay lại được yêu cầu cho in lại, chứng tỏ sách của ông, của miền Nam, chuyên chở tình tự dân tộc và tập quán tốt đẹp của quê hương rất cần cho một xã hội Việt Nam đang sa đọa, vong thân. Đồng thời việc tái bản phải được coi như là một nhìn nhận công khai việc làm sai trái trước đây của người cộng sản. Và dù chưa có lời xin lỗi chính thức từ phía nhà cầm quyền thì việc cho tái bản này cũng đã hàm chứa ý nghĩa đó. Cây thông già càng sừng sững trên đỉnh núi.

Bút ký Người Đàn Bà Trên Tàu 502, đọc phần đầu đã thấy đau lòng, đến phần cuối càng đau lòng hơn. Trong lúc leo lên tàu di tản, một bà mẹ đánh rớt đứa con sáu tuổi rưỡi xuống lòng sông. Mấy mươi năm ở Mỹ bà mẹ lúc nào cũng hy vọng con mình còn sống. Ngay khi có thể được, bà về Việt Nam truy tầm rồi đăng báo tìm con. Và bà gặp lại đứa con, làm thủ tục bảo lãnh sang Mỹ. Trong khi chờ hoàn tất thủ tục, đứa con muốn gì bà cũng cho. Bà cũng hậu hĩ đền ơn vợ chồng người đã nuôi con mình như con ruột của họ. Nhưng giờ chót, bà mẹ khám phá ra sự thật. Đó chỉ là một âm mưu để “vòi” tiền bà.  Cái đau lòng là đứa con giả lại chính là con của người em gái ruột thịt. Những kẻ liên quan đến kịch bản lừa gạt này đều là ruột thịt của bà mẹ, đều là những kẻ có chức, có quyền và có của trong xã hội mới.

Bà bạn cho tin kết luận: “Người Cộng Sản Việt Nam không phải là người như chúng ta. Họ là những sinh vật khác, ta không thể gần họ được…”  Còn người viết lại câu chuyện đưa ra nhận xét: “Phải chăng đây là nỗi đau to lớn nhất của tất cả chúng ta sau cuộc chiến tương tàn. Ngoài nỗi tang thương, chia lìa, sống chết ròng rã mấy mươi năm, dân tộc ta đang đối diện với sự phá sản tận cùng của lương tri?”…

Một bài khác, bài Một Chút Nhớ Quên, Phan Lạc Tiếp cũng đề cập đến “ngôi sao lấp lánh” nhưng ở một quang cảnh hoàn toàn khác: Lễ bàn giao và tiếp nhận 2 Dương vận hạm Quy Nhơn HQ 504 và Nha Trang HQ 505 trong căn cứ Hải Quân Mỹ ở San Diego. Đồng chủ tọa lễ bàn giao là Phó Đề đốc Trần Văn Chơn,Tư Lệnh Hải quân Việt Nam và Đô đốc Elmo Zumwalt, Tư lệnh Hải Quân Hoa Kỳ…

Tôi chỉ xin phụ đề một ý là vị Hạm Trưởng chiếc Dương Vận Hạm Quy Nhơn HQ 504, không ai khác hơn là Hải Quân Trung Tá Phan Phi Phụng, vị cựu Trưởng Phòng Tâm Lý Chiến mà cả Phan Lạc Tiếp và tôi, ở hai thời điểm khác nhau, từng phục vụ dưới quyền ông…

Trong 13 bài ở phần 2 này có một bài tôi tâm đắc nhất: Đó là bài tác giả viết về tác giả. Bài mang cái tựa khá hấp dẫn: Những Chặng Đời Nghiệt Ngã. Tôi tâm đắc vì bài này đã giúp tôi biết về ông nhiều hơn dù rằng chúng tôi từng có mối duyên… kỳ ngộ. Khi ông bắt đầu viết bút ký thì tôi còn… làm thơ. Và rất tình cờ, chúng tôi cùng cho ra đời tác phẩm đầu tiên vào năm 1969. Tuy đồng hành về văn chương nhưng chúng tôi lại đi trái hướng về hải nghiệp. Khi ông hoạt động trong sông thì tôi công tác ngoài biển. Khi ông về Sài Gòn thì tôi sang miền Tây. Khi ông đi biển thì tôi về bờ. Khi ông dứt khoát lánh nạn thì tôi ngu ngơ vào tù cộng sản. Đó là ký do tôi ít biết về chuyện đời của ông. Thì ra ông có lắm chặng đời nghiệt ngã…

Tà tà được một thời gian ngắn, do một lỗi lầm của người khác nhưng họ Phan lại dính búa, Phan Lạc Tiếp ôm ba lô về đơn vị tác chiến, bước vào chặng đường nghiệt ngã thứ nhì. Ông tham dự hành quân và tự ra lệnh mình kiêm luôn chức… phóng viên chiến trường. Các bài ông tường thuật về các cuộc đụng trận đều được trân trọng đăng trên nhật báo Tiền Tuyến đồng thời cũng được phát thanh trên đài tiếng nói Quân Đội. Đến một bài ông mô tả cái chết anh dũng của vị chỉ huy Duyên Đoàn, sĩ quan khóa đàn anh, ông đề cái tựa và tên người viết: “Kẻ nằm xuống bên kia rạch Sọ Dừa - Phan Lạc Tiếp”. Cái tựa được cô xướng ngôn viên đài Quân Đội đọc… một lèo khiến cả nhà ông hốt hoảng và bạn bè cho đăng phân ưu lên báo…

Bằng lối viết nhẩn nha và cẩn trọng như bản tính của ông, nhà văn Phan Lạc Tiếp tiếp tục kể lể trọn vẹn quãng đời “nghiệt ngã” của mình qua 12 năm hải nghiệp và  32 năm xa xứ (năm ông kể chuyện 2007). Quả là tôi đã hiểu rõ cuộc đời ông hơn. Đó là những trải nghiệm thật đa dạng và thú vị. Mỗi phương vị một hướng đời nghiệt ngã.Từ tác chiến sang tâm lý chiến. Từ chiến hạm đổi qua thương thuyền. Từ hàng hải về chiến tranh chính trị. Rồi đi Mỹ lãnh tàu. Rồi về nước. Rồi trở lại Phòng Tâm lý chiến làm xếp sòng. Sau đó, ông đi học tham mưu. Sau đó xuống tàu làm Hạm trưởng, lên bờ làm Thanh tra. Rồi sau cùng ông “dọt” qua Mỹ… ở luôn tới giờ! “Tới giờ” tính ra đã dài gấp ba lần thời gian hải nghiệp nhưng ông chỉ đề cập vắn tắt dăm ba công việc đã làm. Dăm ba việc nhưng đều là việc lớn: Xuất bản 4 quyển truyện và ký.  Soạn thảo và phát hành công trình bề thế Lịch Sử Hải quân Việt Nam Cộng Hòa (gọi tắt là Hải Sử 2004) và công tác Vớt người biển Đông kéo dài hàng chục năm... 

Những dòng cuối cùng của bản “tự khai”, Phan Lạc Tiếp kết luận về quãng đời đã qua của mình: “Trong thời đại loạn triền miên mà mang tấm lòng “Quốc văn giáo khoa thư” ra hành xử, thì sống được đến hôm nay, quả là một phép lạ. Đúng như lời ông thân sinh tôi đã nhắc: “Lập thân tối hạ thị văn chương”! Quả là vậy, nhờ ông nghe lời thân phụ không sống bằng nghề cầm bút mà chỉ hành nghề tay trái cho vui nên dù rằng đời ông có nhiều chặng đường nghiệt ngã nhưng chưa từng lâm vào cảnh…“khốn khổ nhất”!..

Nói tổng quát, Một Thời Oan Trái là một quyển sách thuộc loại rất đáng đọc cho nhiều thế hệ. Dù được viết bằng thể văn ký sự nhưng nhờ tác giả khéo léo lồng vào giọng điệu tâm tình nên đọc mà thấm.  Tập bút ký không chỉ là một tác phẩm văn chương mà còn là một hồ sơ hình ảnh bạo tàn của chiến tranh. Nó còn là chứng cứ của hàng triệu người tan nhà mất nước, với trùng điệp ngang trái oan khiên… Và càng đọc càng thấy thấm!

Rồi khi gấp lại tập bút ký, không thể không đặt câu hỏi: “Ai đã gây ra một thời oan trái đó?”

(Vũ Thất - 9/ 2012)

Nay nhà văn Phan Lạc Tiếp vừa ra người thiên cổ, nhưng với Nỗi Nhớ, Quê Nhà (Hà Nội) 40 Năm Trở Lại… gắn liền với tên tuổi anh với độc giả khắp nơi.

 

Little Saigon, August 07, 2025

Vương Trùng Dương

(Tác giả gởi)

 

Comments

Popular posts from this blog

Bài trăm năm - Trần Yên Hòa

Mẹ đi về phía hoàng hôn - Trần Yên Hòa

Truyện cực ngắn - Mã Lam