“NHẤT TƯỚNG CÔNG THÀNH VẠN CỐT KHÔ” - Trần Thuận Thanh
Mưa Đỏ
Hơn hai tuần qua, bộ phim “Mưa Đỏ” đã tạo nên một hiệu ứng truyền thông chưa từng có trong lịch sử Điện ảnh Việt - vượt rất xa phim “Địa đạo - mặt trời trong lòng đất” từng làm mưa làm gió phòng vé mấy tháng trước, và tạo nên một đợt sóng dư luận mới - trong đó, khen nhiều hơn chê, chủ yếu là khen ăn theo dư luận; và cái “Khen” chủ yếu dựa trên một định đề quen thuộc nằm trong “chiến lược truyền thông” chính thống lâu nay ăn vào não trạng phần đông dân Việt: “Cần mô tả, ca ngợi sự hy sinh mất mát to lớn để hiểu cái giá của Hòa Bình, Độc lập - Tự do”…
<!>Nhưng cho đến giờ này, giới chuyên môn bên Điện ảnh vẫn chưa có một
tiếng nói chính thức nào về phim “Mưa Đỏ”. Mới xuất hiện ngày một nhiều ý
kiến của người “trong cuộc” từng tham gia cuộc chiến Thành Quảng Trị
vạch rõ sự sai lệch, xuyên tạc về lịch sử của tiểu thuyết “Mưa Đỏ” và
phim ăn theo tiểu thuyết. Và giữa “Cơn sốt phòng vé” chưa hạ nhiệt, đã
có những tiếng nói khá chuyên nghiệp phân tích chí lý về sự non kém nghề
nghiệp của một nữ đạo diễn quân đội xuất hiện như một “ánh sao băng
chói lọi” nhưng trước đó chẳng ai biết đến tên tuổi (trong hệ thống phim
Nhà nước tài trợ “khủng” chủ yếu dành cho con cháu các “công thần”, như
“Truyền thuyết Quán Tiên” (của đạo diễn mới ra trường là con cháu lãnh
đạo cao cấp), “Bình Minh đỏ” (đạo diễn là NSND, con của một NSND là “thủ
lĩnh” cũ của ngành phim truyện VN, v.v.). Và nữ nghệ sĩ mang hàm thượng
tá này với tư cách đạo diễn của một bộ phim thực chất là “minh họa” một
cách công phu, cầu kỳ, tốn kém cho tư tưởng “Chiến thắng bằng mọi giá”
của những người ở “đẳng cấp” tự cho mình mang sứ mệnh “Người lính Tiên
phong của Tiền đồn XHCN” (Vui gì hơn làm người lính đi đầu - Tố Hữu)…
Ở góc độ một khán giả bình thường đang làm công tác giáo dục &
nghiên cứu văn hóa, tôi chỉ xin gợi ra chút ít về điều này: Bộ phim “Mưa
Đỏ” được làm ra để làm gì, có ý nghĩa gì trong giai đoạn người ta vẫn
gọi là “tiếp tục hằn gắn vết thương chiến tranh” và “hòa hợp hòa giải
dân tộc thực sự”? Nhất là bộ phim (và tiểu thuyết) đã rơi vào quỹ đạo là
tuyên truyền cho cái điều hàng thập kỷ nay thiên hạ phản bác, ghê sợ:
“Nhất tướng công thành vạn cốt khô” mà nhà thơ Nguyễn Khôi trước đây
từng nhắc lại qua bài thơ thời Đường là “Kỷ Hợi tuế” (Tào Tùng):
Trạch quốc giang sơn nhập chiến đồ,
Sinh dân hà kế lạc tiều tô.
Bằng quân mạc thoại phong hầu sự,
Nhất tướng công thành vạn cốt khô.
( Dịch nghĩa:
Xứ có nhiều sông hồ rơi vào cơn chiến loạn,
Dân đen làm sao có thể yên vui sinh sống?
Các ông đừng có nói về chuyện phong hầu nữa,
Vì một tướng vinh danh thì có vạn xương khô vì loạn lạc).
và ông Nguyễn Khôi dịch thơ:
Năm Kỷ Hợi :
Giang Nam cuộc chiến đã bùng
Dân đen nào biết đến vùng nào yên?
"Phong hầu" thôi, chớ rùm beng
Một anh nên Tướng, vạn tên rơi đầu.
Rồi nhà thơ giải thích sơ qua nhưng gói gọn hồn cốt của một bài thơ
nói lên sự thật: Bài thơ của Tào Tùng là vịnh sự việc vào năm Kỷ Hợi Tuế
(879), Trấn Hải Tiết Độ Sứ là Cao Biền cầm quân giết hại tàn khốc quân
khởi nghĩa Hoàng Sào… Người kiếm cỏ (Tiều Tô) nơi yên hàn đã nói với
Bằng quân: "Xin anh chớ nói chuyện phong hầu" bởi vì điều đó thật đáng
sợ - đó là thứ "giãi thây trăm họ làm công một người" - Đó là câu thơ
cảnh báo "vạn cốt khô" là tội ác của chiến tranh. Chữ "cốt" là nhỡn tự
"chữ mắt" thật rợn người… (Theo: thivien.net).
Chỉ cần đọc lại, đọc thêm một vài tư liệu lịch sử đáng tin cậy thì ta
nhận ra ngay cái ý chí & kết quả của tinh thần phi nhân “Nhất tướng
công thành vạn cốt khô” nói trên, và nó đã vô tình được minh họa, rồi
được quảng bá rầm rộ trong một phim “bom tấn” xét cho cùng là loại phim
“Cúng cụ” mang tên “Mưa Đỏ” ra sao:
“TRẬN CHIẾN Ở THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ"
Giáo sư K. W. Taylor viết: “Vào mùa Xuân năm 1972, Hà Nội huy động
toàn bộ tiềm năng quân sự để mở một cuộc tổng tấn công ở miền Nam với hy
vọng giành chiến thắng ngay tức khắc. Quân lực Việt Nam Cộng hoà đã
đánh bại cuộc tấn công của bộ đội miền Bắc với sự hỗ trợ về hậu cần và
sự yểm trợ của Không quân Mỹ” (A History Of The Vietnamese).
Trong tác phẩm Vietnam - A History (1983), nhà báo Stanley Karnow đã viết về cuộc chiến mùa Hè năm 1972 và trận chiến ở Thành cổ Quảng Trị: “Những người Cộng sản có nhiều lý do khi chuẩn bị cuộc tấn công vào đầu năm 1972. Họ hy vọng có thể ảnh hưởng tới chiến dịch tranh cử Tổng thống ở Mỹ và khi đã khởi đầu chiến dịch quân sự, họ hy vọng sẽ được Trung Quốc và Liên Xô tiếp tục hỗ trợ khi họ đã chứng minh khả năng chiến đấu của mình.
Nhưng trên tất cả, động lực mới liên quan tới một vấn đề cốt yếu: thế
quân bình lực lượng giữa hai phía sẽ ảnh hưởng ra sao tới những cuộc
đàm phán với Mỹ.
Và một lần nữa, nó lại cho thấy niềm tin của những người Cộng sản
rằng chiến thắng quân sự quyết định thành công trong ngoại giao. Nếu họ
giáng được một đòn trí mạng cho quân đội Sài Gòn, họ sẽ cho thấy sự thất
bại của chủ trương Việt Nam hoá Chiến tranh và thuyết phục Mỹ tin rằng
chỉ có thỏa thuận đạt được theo những điều kiện họ đưa ra là lối thoát
duy nhất để chấm dứt cuộc chiến.
Báo Tiền Phong khẳng định rằng những chiến thắng trên chiến trường là
‘chìa khoá để đạt được sự dàn xếp về chính trị. Khi cái đầu qua được
thì cái đuôi sẽ lọt’.
Vào ngày 30.3.1972, những người Cộng sản mở 3 đợt tấn công liên tiếp,
huy động 120.000 bộ đội chính quy miền Bắc và mấy ngàn binh lính Mặt
trận Giải phóng miền Nam để tiến hành cuộc tổng tấn công:
Đợt tấn công thứ nhất nhắm vào các tỉnh phía Bắc của miền Nam Việt
Nam; đợt tấn công thứ hai nhắm vào các tỉnh cao nguyên và vùng duyên
hải; đợt tấn công thứ ba nhắm vào Saigon và các vùng phụ cận.
Dù đã có nhiều thông tin tình báo, các chỉ huy Mỹ và Nam Việt Nam
thật sự sửng sốt trước mức độ ác liệt và sự dài lâu của các cuộc tấn
công, và cú sốc này lan tới cả các viên chức cao cấp ở Washington. 5
tuần trước đó, Bộ trưởng Quốc phòng Melvin Laird nói với các dân biểu
Hạ viện Mỹ rằng ‘những cuộc tấn công của Bắc Việt và Việt Cộng trên khắp
miền Nam là điều bất khả’. Những trận đánh ác liệt chưa từng thấy ở một
số nơi sẽ kéo dài tới tháng 6, gây ra thương vong rất lớn cho binh lính
hai phía và các thường dân.
Quân đội Bắc Việt tập trung nỗ lực tấn công mạnh mẽ ở tỉnh phía Bắc của miền Nam Việt Nam.
Được trang bị trọng pháo của Liên Xô, rốc-két và xe tăng, 15.000 binh
lính Bắc Việt tấn công từ 3 mũi: phía Đông từ Lào, từ Cambodia qua
thung lũng Ashau và từ phía Bắc qua vùng phi quân sự. Sĩ quan chỉ huy
vùng này là Trung tướng Hoàng Xuân Lãm - một sĩ quan kém năng lực đã rút
lui thảm hại hồi năm ngoái trong chiến dịch Hạ Lào, được Tổng thống
Thiệu giao quyền chỉ huy vì lòng trung thành với ông.
Tổng thống Thiệu miễn cưỡng thay tướng Hoàng Xuân Lãm bằng một sĩ
quan chỉ huy có năng lực hơn là Trung tướng Ngô Quang Trưởng. Tuy nhiên
tướng Trưởng không tập hợp được binh lính của một trong hai sư đoàn của
ông kinh hãi trước cuộc tấn công ác liệt của bộ đội Bắc Việt.
Bộ đội Bắc Việt chiếm được thành cổ Quảng Trị vào ngày 1 tháng 5 và
giữ được cho tới tháng 9. Họ không muốn tiến về phía thành phố Huế, một
phần vì hậu cần không cho phép họ thực hiện điều này và một phần cũng vì
cuộc tấn công của họ chỉ nhằm mục đích chính trị.
Con đường ven biển từ Quảng Trị đi về phía Nam được gọi là ‘Đại lộ
Kinh hoàng’ vì trọng pháo của bộ đội Bắc Việt và các tàu chiến của Mỹ
ngoài khơi và máy bay đã giết chết hơn 2.000 thường dân và binh lính của
quân đội Sài Gòn.
Dưới sự chỉ huy của Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Quân đoàn 1 được
tăng cường Lực lượng Tổng trừ bị của Quân lực Việt Nam Cộng hòa và được
yểm trợ từ xa bởi Đệ thất Hạm đội của Mỹ ở ngoài khơi và Không quân Mỹ
đã đẩy lui quân đội Bắc Việt, tái chiếm Thành cổ Quảng Trị và các phần
đất ở phía Nam sông Thạch Hãn.
Tổng thống Nixon đã viết: ‘Vấn đề thật sự là Bắc Việt sẵn sàng hy
sinh để giành chiến thắng trong khi miền Nam Việt Nam không muốn trả một
cái giá quá cao như vậy để tránh thất bại’. Điều Nixon nói cũng là điều
ám ảnh người Mỹ từ khi bắt đầu can thiệp ở Việt Nam. Những người Cộng
sản sẵn sàng chịu thương vong rất lớn để giành những thắng lợi rất nhỏ
nhoi. Số thương vong của quân đội Bắc Việt trong cuộc tổng tấn công năm
1972 là 50.000 người chết và khoảng 50.000 người bị thương” (Vietnam - A History, tr. 639, 640, 642)
Tài liệu tổng kết Chiến dịch Mùa hè 1972 của Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam (mã số KHTM/1972-BQP)
cho biết: “Chúng ta đã thiệt hại nặng nề nhất kể từ sau Tổng tiến công
Mậu Thân năm 1968 mà cần phải một thời gian chừng 4 năm nữa mới có thể
khôi phục lại”.
Ước chừng 225 xe tăng cùng pháo hạng nặng bị phá hủy. Theo Sổ tay Tác
chiến: “Ta hy sinh 10.767, mất tích 1.550, bị bắt 98, bị thương 27.573,
đào lạc ngũ 5.957, hàng 136. Tổng cộng là 46.081. Thiệt hại binh lực có
thể nói là lớn nhất so với tất cả các chiến dịch trong hai cuộc kháng
chiến"…
“Chiến sĩ hầu hết là sinh viên học sinh các trường đại học. Rất nhiều
sinh viên Thủ đô Hà Nội xung phong vào chiến trường” (số liệu theo FB
Tạ Ngọc Vinh).
(FB Huỳnh Duy Lộc).
Xin đọc thêm một số ý kiến khách quan & công tâm về phim “Mưa Đỏ”:
- https://www.facebook.com/100004289162781/posts/3334705313349075/?rdid=ieGfmCPAhDsxBJip#
- https://www.facebook.com/61561107727129/posts/122176806122370257/?rdid=HQpQCT3O7RvIYVNC#
- https://www.facebook.com/100004427675316/posts/3304634699694087/?rdid=aG7kkNiGonOvMoJL#
- https://www.facebook.com/61561107727129/posts/122177129690370257/?rdid=FOg5PLLatnkdq8Sz#
v.v.
Hà Nội, đầu tháng 9.2025
Trần Thuận Thanh
Comments
Post a Comment