Lê Thị Thấm Vân Đi Về Xứ Nắng - Liễu Trương

Vietnamese Ebooks EPUB ...

Lê Thị Thấm Vân

Có những độc giả vốn có sẵn một quan niệm về cái đẹp trong văn chương, nên dễ dàng giữ khoảng cách với những tác phẩm của Lê Thị Thấm Vân, vì tác giả này là một cây bút nữ viết về tình dục rất bạo, khiến người đọc đôi lúc phải cau mày. Thật ra, ở miền Nam trước 1975, cũng đã có những nhà văn nữ đề cập đến vấn đề tình dục như Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Trùng Dương, v.v…, nhưng họ viết một cách chừng mực, khéo léo, không đi đến cái độ quá bạo như Lê Thị Thấm Vân.

 <!>

Công bình mà nói, tác phẩm của Lê Thị Thấm Vân không chỉ có chừng đó. Lê Thị Thấm Vân đi xa hơn với cái nhìn bao quát về thân phận người phụ nữ, về nữ quyền, qua một văn phong riêng biệt làm nên tên tuổi của tác giả trong văn học hải ngoại.

Lê Thị Thấm Vân thường viết về người nữ, chẳng hạn truyện Âm Vọng nói về bốn người phụ nữ được biểu tượng bằng những cái tên huyền thoại, với một ngôn ngữ đa dạng, biến đổi theo tâm trạng và trình độ văn hóa của các nhân vật.

Đến nay, Lê Thị Thấm Vân là tác giả của 7 tác phẩm :

Đôi Bờ (tập truyện, 1993)
Mùa Trăng (tiểu thuyết, 1995)
Việt Nam Ngày Tôi Trở Về (tiểu luận, 1996)
Yellow Light (thơ, 1998)
Xứ Nắng (tiểu thuyết, 2000)
Âm Vọng (tiểu thuyết, 2003)
Bóng Gẫy Của Thần Tích (tiểu thuyết, 2005)

Truyện Bóng Gẫy Của Thần Tích hẳn chưa phải là tác phẩm cuối cùng, vì độc giả còn hy vọng đọc những tác phẩm mới của tác giả.

Để biết phần nào khả năng sáng tạo và văn phong của Lê Thị Thấm Vân, chúng ta có thể đi vào tiểu thuyết Xứ Nắng xuất bản năm 2000. Xứ Nắng là một truyện tình cảm khá lôi cuốn, cách xây dựng truyện và văn phong của Lê Thị Thấm Vân có những đặc điểm đáng được bàn đến.

I. Truyện Xứ Nắng

 

 

Người kể truyện mà cũng là một nhân vật chính là một phụ nữ không có tên trong truyện. Cô cho biết cô sinh năm 1968, là năm xảy ra một biến cố đẫm máu ở Huế, gọi là biến cố Tết Mậu thân. Vậy cô là một nhân vật sinh trong thời chiến. Về sau cô di tản sang Mỹ với cha mẹ. Khi học xong, cô gặp một người đàn ông tên Đức vừa ly dị vợ, một phụ nữ Mỹ hành nghề y sĩ, hai người có một con gái tên Alyssa. Lý do của vụ ly dị là Đức bắt gặp vợ làm tình với một người phụ nữ, bạn của hai vợ chồng. Đức sang Mỹ du học và chọn ngành luật, ngoài ngành học, anh nuôi mộng làm nhà văn, nhưng mộng không thành. Cô gái và Đức quen nhau và nhanh chóng đi đến hôn nhân, mặc dù bố của cô không tán thành và cắt đứt liên lạc với cô trong một năm. Cô lấy chồng được năm năm và một mực thương yêu chồng, xem chồng như một điểm tựa. Hai vợ chồng sống ở phía Bắc tiểu bang California.

Đức tính tình điềm đạm, từ tốn, nhẫn nại, rất gắn bó với miền đất Dục Mỹ ở quê nhà. Dục Mỹ là nơi anh đã sống thời thơ ấu, là nơi có nhiều kỷ niệm đau thương của gia đình, anh không dứt bỏ được Dục Mỹ trong tâm trí anh, nó như một vết thương không lành. Anh rất thương gia đình, nhất là người mẹ. Đêm đêm trong giấc mơ, anh kể thao thao bất tuyệt những chuyện về gia đình, về Dục Mỹ, khiến người vợ nằm bên cạnh cứ nghe mãi những chuyện đó và bị Dục Mỹ ám ảnh. Đó là lý do khiến người vợ lên đường về Dục Mỹ, « một xứ sở không bao giờ thiếu nắng ».

Cô gái khám phá gia đình bên chồng gồm 5 người con trai : Tịnh, người con cả, năm 18 tuổi nhập ngũ, bị một tân binh vô tình bắn chết ; Quyến, người con thứ hai, mất tích, phải chăng do đi vượt biên hay vì một tai nạn đâu đó ; Đức, người con thứ ba, là chồng của cô gái kể truyện, là người được may mắn đi du học bên Mỹ và ở lại bên đó ; Trinh, người con thứ tư, đến tuổi bị bắt buộc đi nghĩa vụ bên Campuchia, gặp lúc hai bên đánh nhau, Trinh bị thương nơi mặt, về sau nửa mặt bên phải mang chằng chịt vết sẹo ; Hoán, người con út, sinh ra với cái chân thọt, một bị thịt không có xương, do Mỹ rải chất độc trên rừng khi xưa.

Thời bố của 5 anh em trai đi lính, mẹ còn khỏe, mang bầy con đi theo bố khắp nơi, về sau sức mẹ suy yếu, mẹ dừng lại ở Dục Mỹ. Bố thường vắng nhà, mỗi khi về nhà, ông say rượu mắng chửi và đánh đập mẹ. Mẹ nhẫn nhục lo buôn bán nuôi bầy con. Về sau gia đình sống nhờ vào đồng tiền Đức gửi về.

Cô gái đến Dục Mỹ với bao kỷ niệm và tình cảm do chồng kể lại. Khi cô đến nơi thì chỉ còn người mẹ, Trinh và Hoán được gọi là « thằng út », người ngoài gọi là « thằng què », « thằng câm ». Trinh giúp mẹ lo công việc trong nhà, thằng út suốt ngày quơ cái nạng gỗ đi đây đó, nó thích ra ngồi quán nước, hút thuốc, nghe nhạc karaoké, xem phim bộ. Nó dửng dưng với người chị dâu. Trinh trái lại rất ân cần, tử tế với người chị từ phương xa đến. Có lần cô gái thấy thằng Út thoa son đỏ chót cả môi, mới biết nó ăn cắp thỏi son của cô, hóa ra nó có tính nữ phái.

Người gần gũi với cô nhất là Trinh, người con trai hiền lành, nhẫn nhục. Cái họa lớn nhất trong đời Trinh là nửa gương mặt bị chiến tranh bên Campuchia tàn phá, khiến Trinh đau xót, mang mặc cảm. Trinh nói với người chị dâu, giọng nói như một thách thức : « Mặt tôi thế này ! Nhìn đi, nhìn kỹ đi. (…) Mặt tôi thế này ! Chị thấy rõ chưa ? Thấy rõ chưa ? »

Về đến Dục Mỹ, cô thấy một người đàn bà ngồi ôm mình trong một xó, không thấy cái đầu. Cô gọi thầm là người đàn bà không đầu. Người đàn bà đó là mẹ của Đức. Buổi sáng ngủ dậy cô gọi : « Mẹ, mẹ, con đây mẹ. Không biết bên kia nửa quả địa cầu, đêm là ngày, ngày là đêm, chồng tôi có nghe không ? »

Đức thương mẹ : « Nếu trên trần gian này có chữ cho, hiến dâng, tặng, biếu… thì Mẹ anh là biểu tượng. » (tr. 37)

Mỗi lần Đức về thăm nhà thì thấy mẹ càng tàn tạ hơn trước. Đức về thăm mẹ ba lần. Lần đầu, Đức nhận ngay ra mẹ, mẹ còn nói năng, hỏi han con. Lần thứ nhì, Đức hơi nhận ra mẹ, bà mặc áo sờn vai trong khi vải lụa không thiếu. Con người bà lại bẩn thỉu, dường như lâu ngày bà không tắm. Đức đưa mẹ vào nhà tắm, ngồi chờ, nước mắt chảy dài. Lần về thứ ba, người mẹ mất trí, đầu tóc đầy chấy. Đức cắt tóc, gội đầu cho mẹ. Anh quên mất nụ cười và giọng nói của mẹ.

Mẹ trong trí nhớ của Đức là một người rất thực tế, là niềm tin, là bức tường kiên cố, là cành dương chắn gió…

« Là âm thanh van xin, nguyền rủa, khóc lóc,
Là muôn mặt pha lẫn khôn ngoan trường đời đúng nghĩa. » (tr. 51-52)

Bi kịch của đời mẹ khởi đầu năm mẹ 16 tuổi, bị một ông chú họ hiếp. Mẹ mang thai, năm 17 tuổi mẹ sinh một bé gái, ba ngày sau gia đình đem cho một người đàn bà không con. Mẹ đặt tên đứa bé là Thoa. Mẹ thường mơ đến Thoa như một điểm tựa. Rồi mẹ lấy chồng, người này là bố của năm người con trai. Ông bố biết chuyện bi thương của mẹ, nên mỗi lần về nhà say rượu chẳng những ông đánh đập, chửi bới mẹ mà còn đem chuyện đó ra mắng nhiếc mẹ, gọi mẹ là « con đĩ » và hỏi đứa con đó đâu rồi. Đau đớn, nhục nhã cho mẹ. Dần dần mẹ trở nên mất trí. Sau khi ông bố chết, một hôm có một người đàn bà lạ mặt đem một đứa con gái đến gặp mẹ và đưa ra một tờ hôn thú, nói rằng bà ta là vợ thứ của bố và người con gái là con của bố. Trinh kể từ đó mẹ tắt tiếng. Mỗi bữa ăn, Trinh đút cơm cho mẹ một cách khó khăn, vì mẹ không muốn ăn. Mẹ thường đi lang thang trong xóm, lúc đầu tụi trẻ con đi theo chế nhạo, ném đá, nhưng rồi chúng cũng quen, bỏ đi.

Cô gái vừa kể lại chuyện của gia đình chồng ở Dục Mỹ, vừa nhớ chồng, tự hỏi chồng đang làm gì bên Mỹ và gợi lại vài kỷ niệm đời sống bên Mỹ với chồng. Tưởng như cô muốn sống ở cả hai nơi một lần.

Cô khám phá Dục Mỹ, nơi người dân sinh hoạt ồn ào, lộn xộn, thiếu vệ sinh ; khám phá Chợ Đầm, trường Chùa, nơi học sinh đứng ngoài ngõ, không vào học vì mái trường dột. Có gánh bún riêu gần đấy, cô đãi đám học sinh một bữa bún riêu, vừa làm học sinh vui thích, vừa cho chị bán bún riêu được đắc hàng.

Dục Mỹ trong ký ức chồng thì đẹp. « Anh thấy nó đẹp, đẹp tội tình em ạ. Đẹp trong trí nhớ anh. Trong từng giấc mơ, mỗi ngày mỗi xa giạt. Trong từng bước chân trần tuổi dại, áo hở rốn… » (tr. 66)

Có lần Trinh đưa cô ra biển chơi. Cô ngồi trên cát, bên cạnh có mấy người đàn bà bán hàng rong. Cô để ý một trong những người đó trời nắng nóng mà mặc đến ba cái áo và có vẻ giấu một vết thương nơi cổ. Hỏi ra mới biết người đàn bà đó bị chồng đánh. Chị ta kể đã thủ sẵn con dao hễ hắn đến gần thì chị ta sẽ ra tay, nhưng bất ngờ hắn vớ cái nón lá chị ta mới mua, sợ hắn làm hư cái nón lá, chị ta để tuột con dao, hắn liền xông tới đánh chị ta tơi bời, chị ta bị thương ở cổ. Cô bèn hỏi cái nón lá giá bao nhiêu. Chị ta nói ba chục ngàn, cô liền móc trong túi ra tờ năm chục ngàn cho chị ta và bảo hãy mua một cái nón mới.

Cô thường hay suy nghĩ, nên có những kỷ niệm trong gia đình cô, không liên quan đến Dục Mỹ, những kỷ niệm đó trở lại trong ký ức, như chuyện cô Nhài người con ngoại hôn của ông nội, chuyện người chị họ tên Cát Tiên.

Cô Nhài lúc đầu không có tên, nhưng vì thuở nhỏ hay chơi và ngủ gần một bụi nhài nên cuối cùng cô được đặt tên Nhài. Khi cô Nhài mới 16 tuổi thì gia đình gả cô cho một người đàn ông làng bên cạnh, cô Nhài làm việc ngày đêm quần quật, lại bị đánh đập, cô trốn về làng mình thì bị người anh cả bắt trở lại nhà chồng, lần thứ hai cô trở về làng cũ với cái thai 8 tháng, bị người anh cả dứt khoác đuổi đi. Cô Nhài ra đi, nhưng không trở về nhà chồng, không biết cô đi đâu với cái thai tám tháng, sống chết ra sao.

Còn Cát Tiên, người chị họ của cô gái, thì hoàn toàn ngược lại. Chị sống ở Mỹ, thông minh, lanh lợi, sống độc thân, tự do. Chị tốt nghiệp ở đại học Columbia. Trong một nước văn minh, kỹ nghệ tân tiến, chị tự lập, say sưa với công việc của mình ; chị có tinh thần trách nhiệm và nhiều tham vọng nên dễ được thăng chức. Nhưng bỗng nhiên chị nhận thấy một sự trống rỗng nào đó, mọi sự đều trở nên vô nghĩa. Chị nghe tiếng gọi của tâm linh bèn hướng về con đường Thiền viện.

Trở lại đời sống hiện tại, khi đã biết rõ mảnh đất Dục Mỹ và những con người đáng thương đang sống ở đấy, cô gái trở về Mỹ sớm hơn dự định.

II. Người phụ nữ trong truyện Xứ Nắng

Xứ Nắng không chỉ là chuyện bi thương của người mẹ mà cô gái theo dõi từ đầu ; trong truyện cũng có hoàn cảnh của những người phụ nữ khác. Có hai hạng phụ nữ trong truyện Xứ Nắng : hạng thứ nhất là hạng phụ nữ may mắn, được học hành và sống độc lập trên đất Mỹ, xứ sở của văn minh, tự do, của nam nữ bình quyền, Cát Tiên và cô gái kể truyện thuộc hạng phụ nữ này.

Hạng thứ hai ngược lại là hạng phụ nữ bị thiệt thòi, nạn nhân của bạo lực ; đó là người mẹ, cô Nhài và người đàn bà bán hàng rong có người chồng vũ phu. Cả ba đều sống trong một xã hội bất công, trong đó người đàn ông cậy vào sức mạnh của mình để hà hiếp, hung bạo đối với người đàn bà. Vì thiếu học vấn, thiếu văn hóa, nên người phụ nữ thuộc hạng này không có phương tiện, khí giới để tự bảo vệ.

Điều bất ngờ là nỗi đau khổ của những người phụ nữ này biến đổi tâm hồn cô gái kể truyện. Lòng nhân ái của cô khởi đầu với chuyện gia đình của Đức : « Về đây, tôi ôm được cái bóng khổng lồ trong lòng anh. Rờ được vết thương tươi rói (…). Từng khuôn mặt, tên gọi, giọng nói, ngôn ngữ, giòng họ, nóc nhà, mảnh sân trước, góc vườn sau… » (tr. 47) Cô săn sóc mẹ chồng, rồi xúc động : « Tôi ôm sát bà vào. Mũi cay nồng. Mẹ ơi, mẹ ơi, con đây, con về với mẹ đây… Có vật gì đó chận ngang cuống họng. Tôi thương bà và tôi thương tôi. » (tr. 97)

Thương mẹ chồng, em chồng đã đành, còn có mảnh đất Dục Mỹ nghèo khổ bỗng dưng trở nên cái nơi lòng nhân ái của cô chớm nở và lớn dần. Thấy học sinh trường Chùa không vào lớp học được, vì mái trường bị dột, cô chẳng những tỏ ra thương học sinh bằng cách đãi chúng một bữa bún riêu, mà còn tính chuyện mua những lớp tôn để lợp lại mái trường. Cô chạnh lòng trước chuyện người đàn bà bị chồng đánh, bèn tặng người đó một số tiền như một cử chỉ an ủi.

Kể từ nay, có một người ở phương xa nhớ thương về Dục Mỹ với những con người ở đấy, và càng hiểu rằng đất nước Việt Nam là « Nơi chẳng có gì, ngoài lòng yêu thương và sự chết. » (tr. 159)

III. Một phong cách viết

Tiểu thuyết Xứ Nắng của Lê Thị Thấm Vân dài 159 trang, gồm 63 chương. Các chương dài ngắn không đồng đều, có chương dài 6, 7 trang, có chương chưa đầy nửa trang, lại có chương gồm 7 hoặc 3 câu, tưởng như người kể truyện kể theo tâm trạng của mình.

Đối với một nhà văn có khuynh hướng viết về tình dục như Lê Thị Thấm Vân thì một tác phẩm như Xứ Nắng không tránh được điều đó. Tuy nhiên, xin nói ngay rằng những chi tiết về tình dục rất ít, ngoài cái chương nói về cảnh thủ dâm của cô gái, về thân xác cô gái bị cám dỗ khi gần Trinh và về hình ảnh tưởng tượng người bố chồng là con trâu điên hung tợn với người mẹ khi lên cơn sốt dục tình, có điều là tình dục ở đây liên quan đến sự sinh sản con cái. Xứ Nắng trên hết là một tiểu thuyết tình cảm, được viết với một phong cách có những đặc điểm sau đây :

– Lối dùng chữ khác thường :

« Ở anh, có sự điềm đạm, vững chãi, từ tốn, không hiểu sao lúc đấy tôi nghĩ thế. » (tr. 19)
« Lúc đấy anh vừa ra trường luật.» (tr. 20)
« Lúc đấy giọng mẹ bực bội thật. » (tr. 26)

– Những lập lại khá dài, có tính dồn dập :

« Dục Mỹ, tôi không rõ, không hiểu, không thấy, không tìm kiếm, không bận tâm, không thắc mắc, không hỏi han nhiều. » tr. 25)
« Dân tứ xứ, lỡ đường, lỡ xá, lỡ làng, lỡ dại… lở dở, lỡ thì, lỡ trớn… ô hợp. (tr. 25)
« Nơi đây cái gì cũng quá độ. Tiếng reo hò trẻ con. Tiếng chửi bới người lớn. Tiếng rao hàng. Tiếng chó sủa. Tiếng gà gáy. Tiếng heo đòi ăn… » (tr. 66)

Khi cô gái ngồi sau xe Trinh, ôm chặt lưng Trinh :

« Ở Việt Nam, nhiều điều không nên làm như thế.
Ở Việt Nam, tại sao lại làm như thế.
Ở Việt Nam, không dự định, không sắp đặt, không biết trước. Bước chân kế có thể rơi lọt xuống hố sâu. » (tr. 86)

– Thơ bất ngờ xuất hiện :

Tự sự văn xuôi đang kể giọng nói thách thức của Trinh về gương mặt của mình, bỗng nhiên xuất hiện mấy câu thơ :

« Miệng tôi há.
Gió lùa kín miệng.
Mắt Trinh vẫn phóng lửa.
Mặt đối mặt. Buổi sáng. Tôi và Trinh. » (tr. 58)

Hoặc sau khi thủ dâm :

« Thân thể tôi giãn nở
mười ngón chân hết cứng đơ
vũng bụng thôi cuộn sóng
tất cả rũ mềm như giải lụa
chậu nước tỏa hơi mát
tôi mỉm cười trong đêm. » (tr. 127)

– Có những câu văn thay vì miêu tả lại gợi lên tính chủ quan, tình trạng thân xác của tác giả : « Mặt trời hung dữ. » (tr. 86)

Hoặc miêu tả nhưng để đi xa hơn, gợi ý so sánh về văn hóa Đông Tây :

« Mộ ở Mỹ bằng phẳng như bận đồng phục, mộ Việt Nam nhấp nhô to nhỏ như nhà tranh, nhà ngói, lâu đài. » (tr. 80)

Đáng chú ý nhất là lối viết tán rộng – Pháp gọi là digression – ra khỏi cốt truyện, đi xa khiến văn bản đôi khi có dáng dấp một bài tùy bút, rồi trở về với một kết luận theo chủ ý của tác giả.

Chẳng hạn từ một lời tuyên bố của một tổng thống Mỹ về sự bình đẳng của mọi người, tác giả tán rộng để đi đến kết luận rằng không có bình đẳng ở nước ta.

Một ví dụ tán rộng khác : khi đi thuyền trên sông Hương và nghe tiếng hò của một người đàn bà :

« Nước non ngàn dặm ra đi, mối tình chi
Mượn màu son phấn, đền nợ Ô Ly. »

Cô gái liền nghĩ đến lịch sử Nam tiến, nghĩ đến Huyền Trân Công chúa được vua cha gả cho vua Chiêm Thành để lãnh thổ có thêm hai phần Ô và Lý. Bài tán rộng đi đến kết luận rằng so với Huyền Trân Công chúa thì phụ nữ ngày nay tự do hơn nhiều, tự do chọn cho mình một người chồng thuộc bất cứ màu da nào, bất cứ ngôn ngữ nào, tự do vượt biên giới, trong khi người đàn ông bị gò bó bởi sự cần thiết có con trai để duy trì dòng dõi.

Có thể nói, trong truyện Xứ Nắng Lê Thị Thấm Vân viết như đùa với chữ nghĩa, cho ngôn ngữ một hình thức biến đổi, đồng thời khai thác yếu tố tình cảm, đặc biệt lòng nhân ái, và vấn đề nữ quyền.

Liễu Trương

Comments

Popular posts from this blog

Bài trăm năm - Trần Yên Hòa

Truyện cực ngắn - Mã Lam

Mẹ đi về phía hoàng hôn - Trần Yên Hòa