Lũ Lụt: Thảm Nạn Quê Hương Quảng Nam - Vương Trùng Dương
Khi ở Mỹ, là người con xứ Quảng xa quê hương nên khi biết tin thiên tai xảy ra nơi cố hương với bao nỗi buồn đau. Nơi có còn dòng tộc, họ hàng, thân quyến vẫn bám trụ quê hương từ bao đời.
Sau bảy thập niên, trải qua bao lần cố hương bị thiên tai, và lần nầy trận lũ lụt kinh hoàng lại ập đến, chưa biết rõ hậu quả xảy ra vì mưa gió, lũ lụt còn tiếp tục nên bày tỏ cảm nghĩ. (Little Saigon, November 27, 2025 – VTrD)
<!>
Trận lụt Giáp Thìn năm 1964 là trận lụt kinh hoàng nhất trong thế kỷ tại Quảng Nam.
Những trận mưa liên tục từ ngày 4 đến ngày 10/11/1964 miền Trung từ Huế đến Bình Định, trong đó nặng nề nhất là Quảng Nam. Nước lũ từ thượng nguồn sông Thu Bồn kéo về chảy xiết, cuốn trôi nhà cửa, cây cối trôi theo dòng nước lũ… Phố cổ Hội An chìm trong biển nước. (Theo thống kê, lũ đã cuốn trôi hơn 6000 người, nhà cửa hư hại 50%, hoa màu mất 80%, hơn 53.000 bị chìm trong biển lũ mênh mông).
Trươc thảm cảnh nầy Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ Tướng Trần Văn Hương dồn mọi nỗ lực để cứu trợ đồng bào bị nạn lụt tàn phá. Lời kêu gọi quốc dân đồng bào có tinh thần tương thân tương ái được nhiều hội đoàn dân sự, tổ chức, các cơ quan truyền thông hưởng ứng nhiệt tình, ra tay cứu giúp.
Lúc đó, tôi còn ở nơi phố cổ nầy, khi phái đoàn thanh niên, sinh viên từ Sài Gòn ra ủy lạo, chúng tôi tháp tùng cùng các phái đoàn đến các miền núi cứu trợ.
“Quốc dân đồng bào!
Ảnh hưởng tai hại của nạn bão lụt càng ngày càng gia tăng khốc liệt. Đây là một quốc nạn đã gây nên điêu linh cho hàng triệu đồng bào ta tại các tỉnh miền Trung. Cho đến ngày hôm nay, nạn nhân được biết mỗi lúc một nhiều. Tài sản, hoa màu của dân chúng bị tàn phá đến không sao kể xiết. Rồi đây bao nhiêu gia đình phải chịu tang tóc, sống không nơi nương tựa, mong chờ từng manh áo bát cơm. Bao nhiêu trẻ mồ côi đói lạnh ngóng trông từng mảnh chăn giọt sữa. Nhìn cảnh tượng ấy, động mối từ tâm, ai cũng phải đau buồn xót thương rơi lệ.
Trước thảm trạng này, tôi thiết tha kêu gọi mọi tầng lớp nhân dân, mọi tổ chức xã hội và từ thiện hãy tích cực tham gia công cuộc cứu trợ để tỏ mối thân tình đoàn kết, và cùng nhau ta chia sớt nỗi thống khổ của đồng bào trong cơn hoạn nạn”.
(Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu)
Là người con của quê hương, nhà thơ Tường Linh ở Sài Gòn trong nỗi khổ đau đã sáng tác hai bài thơ trong thời điểm đó, được phổ biến trên nhiều tờ báo, gây xúc động:
Bài thơ thứ nhất:
Tin Bão Miền Trung
“Nhà tôi ở bên sông trống gió
Mái lá đơn sơ, cột gỗ gầy
Mùa bấc bếp chiều không lửa đỏ
Trưa nồm trở mạnh vách lung lay
Năm năm, mỗi độ đông vừa chớm
Xóm dưới làng trên ngại lụt nhiều
Dòng nước Thu Bồn thành nỗi sợ
Khi rừng xa vọng thác vang reo
Mưa... những tuần mưa nối tiếp nhau
Đôi bờ sông lớn nước dâng mau
Nước dâng ngờm ngợp, trôi cuồn cuộn
Nước ngập gần xa trắng một màu
Đồng lúa, vườn cây nước xoá nhanh
Nước xô nhà ngói, cuốn nhà tranh
Nước ngâm cỏ chết, trâu bò đói
Bốn hướng trời không chút nắng hanh
Người ở miền Trung mùa lụt tới
Nhắc nhau câu chuyện “bão năm Thìn”
Năm nay lại cũng năm Thìn nữa
Lụt đã tràn dâng, bão đã lên!
Bão đã lên, ơi xứ ta nghèo
Ai ra ngoài nớ gởi sầu theo
Có bao nhà đổ, bao người chết
Bao lúa, khoai, ngô... hoá bọt bèo!
Nhà tôi ở đó mong manh lắm
Tay mẹ làm sao chống gió cuồng?
Con ở phương Nam chiều vẫn ấm
Mà lòng như có nước sông tuôn...
(Sài Gòn 18/9/1964)
Bài thơ thứ hai sau khi lũ lụt xảy ra:
Thảm Nạn Quê Hương
“Không còn gì nữa cả
Không còn gì nữa cả em ơi!
Một tháng quê hương không bóng mặt trời
Một tháng quê hương mưa gào gió thét
Đất Quảng thân yêu người người rên siết
Sáu mươi năm lại đến “hoạ năm Thìn”
Thảm nạn này biết thuở nào quên!
Biết thuở nào quên!
Một tối nước lên, nước tràn lên khủng khiếp
Cả ngàn người, cả vạn người không chạy kịp
Nước réo ầm ầm át tiếng kêu la
Chới với. Ngửa nghiêng. Người cuốn theo nhà
Nhà theo sóng. Người không thấy nữa
Nhìn con trôi, mắt cha máu ứa
Ngoi lên, tay vợ níu lưng chồng
Rồi hai người thành hai xác giữa mênh mông
Tấp vào bờ thây của người ông
Giữ xác cháu, hàm răng ghim áo cháu
Nhà có mười người, hết đường phấn đấu
Sợi dây dài vội vã thắt tay nhau
Cây nước tràn lên, cây nước phủ đầu
Một “dây xác” trôi về đâu, ai biết…
Còn bao cảnh não nùng, bi thiết
Nói không cùng, ghi chẳng hết em ơi!
Đất Quảng quê ta chết bốn ngàn người
Kể chung miền Trung còn hơn thế nữa!
Người sống sót không còn nhà cửa
Không áo cơm, khô cả lệ thông thường
Cắn vành môi nhìn lại một quê hương
Bỗng run sợ tưởng đây miền địa ngục
Quê hương ta: một hình hài ngã gục
Gà Tan ơi, Trung Phước, Đại Bình ơi!
Đông An, Bình Yên… nước xoá cả rồi
Đá núi lấp đồng, bùn sông lấp xóm
Mưa vẫn còn rây trên quê hương ảm đạm
Đồng hoang vu còn giữ những thây người
Những thây người! Không đếm hết, em ơi!
Em hãy ghi: Ngày mùng 6 tháng 10
Năm âm lịch Giáp Thìn, em nhé!
Ngày giỗ quê hương, dù bao thế hệ
Thảm nạn này biết thuở nào quên
Xót thương về, em hãy đốt hương lên!”
(Sài Gòn 11/1964)
*
Ở Mỹ (và nhiều quốc gia trên thế giới) khi xảy ra thiên tai (hỏa hoạn, bão, lụt…) nhà cửa không còn nhưng có bảo hiểm để xây dựng lại cơ ngơi. Tuy có thiệt hại, mất mát nhưng còn có “nơi an chốn ở”… Nhưng ở trong nước thì trắng tay! Cơ ngơi đời ông, đời cha… mất sạch!
Litlle Saigon
Vương Trùng Dương
(Tác giả gởi)
Comments
Post a Comment