mòn mỏi chờ ai đó trở về - Hoàng Chính
tranh nguyễn trung
Tôi đứng sát vách tường trắng. Đầu cúi, mắt nhắm hờ. Khung cảnh chung quanh mập mờ như bị phủ bởi một lớp sương mù buổi sáng. Mẹ nằm giữa phòng khách.
<!>
Chiếc quan tài gỗ nâu kê ngay ngắn giữa khoảng chữ nhật hẹp của nền nhà lát gạch hoa. Những vòng hoa tang dựng đầy chung quanh. Quanh tôi toàn người với người. Những hình ảnh nhập nhòe, kẻ đứng người ngồi đầy khoảng sân trước nhà, dưới mái bạt căng. Những chiếc ghế nhựa thấp lè tè hai màu xanh đỏ. Tiếng chuyện trò râm ran. Những đứa em gái chạy xuống bếp rồi chạy lên nhà như con thoi bình nước trà trong tay, liên tục châm cho đầy những chiếc ly thủy tinh nứt nẻ. Tôi lẻ loi. Tôi không nhìn ai, cũng không trò chuyện với ai. Mẹ tôi nằm đó. Thật gần nhưng xa vời vợi. Tôi khóc không ra tiếng. Nước mắt tuôn như lũ lụt. Chưa bao giờ tôi khóc nhiều và thỏa thuê như thế. Lũ trẻ rón rén đi qua ngước nhìn tôi, những khuôn mặt ngơ ngác. Chắc chúng nó chưa bao giờ thấy đàn ông khóc. Chưa bao giờ thấy nước mắt nhiều như thế từ một người đàn ông tóc hoa râm lạ mặt. Tôi nhìn những con mắt trẻ thơ qua màn nước mỏng. Những cái cổ gầy còm và dài ngoằng. Những chân tay khẳng khiu, khúc khuỷu, và đen đủi như những cây củi khô. Tôi không nhớ mặt mà cũng chẳng nhận ra đứa trẻ nào. Chúng nó giống hệt nhau. Ở màu da nâu đen, ở con mắt trắng, ở ánh nhìn tò mò, mớ chân tay thừa thãi, quơ quào không biết giấu vào đâu. Và những chiếc áo vá.
Một người đàn bà vạch đám đông, lao lên bậc thềm, chiếc nón lá vướng sau lưng, chị ta gỡ vội chiếc nón quăng xuống nền nhà, tuột vội đôi dép mòn, tất tả chạy vào ôm lấy cái quan tài, và òa lên khóc. Những lời kể lể tuôn như nước lũ. Tôi chỉ nghe được những chữ “Mẹ ơi. Mẹ ơi!” Và tôi ngạc nhiên, nhướng mắt nhìn. Chiếc áo tang xộc xệch mỏng dính phủ lên thân thể gầy gò, che không kín mảnh áo sơ mi màu xanh nhạt nhăn nhúm và chiếc quần tây màu đen còn đầy những nếp gấp. Hai bàn tay bấu vào nắp quan tài gỗ. Hai bàn chân đen đúa dán chặt xuống nền nhà. Thân mình run rẩy theo nhịp tiếng kêu rêu. Mẹ ơi. Mẹ ơi. Tôi nheo mắt suy nghĩ. Tôi là con đầu lòng. Bầy em gái tôi đã gặp đủ cả chín đứa, đã vắn tắt trò chuyện hôm qua, khi rời sân bay trên chiếc xe ôm lướt vùn vụt trên phố, về lại căn nhà xưa. Người đàn bà này không phải em gái tôi. Tôi xa nhà đã hai mươi mấy năm. Bây giờ tôi mới về lại. Buổi tối, giọng thằng cháu đầy âm hưởng cấp bách trên đường dây viễn liên, “Bác ơi, bác về ngay đi thôi, bà ngoại yếu lắm rồi, sợ không kịp…” Thế là tôi vội vã trở về. Bao nhiêu năm xa xứ, tôi không quen biết hay ràng buộc với ai ở quê nhà, để người ta phải chờ đợi. Tôi biết chắc tôi không để lại quê nhà một người con gái nào để cô ta có thể gọi mẹ tôi là “Mẹ.”
Đầu óc tôi quay cuồng. Người đàn bà vẫn khóc, vẫn kể lể bằng cái giọng ướt sũng. Âm thanh quấn vào nhau. Như những ngụm hơi thở thoát vội qua chiếc cổ họng đang bị kẻ nào đó siết cứng. Tôi vẫn chỉ bắt được những chữ “Mẹ ơi!” Và nước mắt tôi lại tuôn ra như mạch nước ngầm vừa bị nhát cuốc nào đó khơi trúng. Rồi bỗng dưng người đàn bà ngồi thụp xuống bên những chân ghế gỗ chống quan tài. Đầu dựa vào vách áo quan, hai tay vươn lên bám vào phiến gỗ màu nâu đỏ. Giọng chị lạc đi, khao khao như sắp đứt hơi. Những đứa em gái tôi lùm xùm trong lớp áo tang mỏng như vải màn, vẫn lặng lẽ đi ra đi vào, qua phòng khách, chỗ đặt áo quan mẹ, xuống bếp lấy bình nước, đem ra sân rót vào những chiếc ly sành cho khách viếng. Đám khách vẫn thản nhiên trò chuyện. Kẻ đứng người ngồi. Không ai ngó ngàng gì tới người đàn bà vừa khóc đến đứt hơi. Và không ai để ý đến tôi. Nên tôi vẫn đứng dựa vách tường, đầu khẽ cúi, hai tay khoanh trước bụng, và lắng nghe những tiếng “Mẹ ơi!” lạc giọng, mặc cho nước mắt tràn hai má, trôi xuống cằm, rụng xuống chiếc áo dài bằng vải sô thưa như vải màn.
Rồi người đàn bà nặng nề chống tay đứng dậy, đưa cánh tay lên lau nước mắt và khom người ôm chầm lấy áo quan, thì thầm, “Con phải về, con của con đang ốm, mẹ ra đi bình an nhé.”
Trong tiếng nói chuyện lao xao của những người chung quanh, tôi nghe được như thế. Người đàn bà cúi xuống áp mặt lên nắp áo quan. Chị hôn lên lớp vải tang ai đó phủ trên mặt gỗ, hôn cả lên những cánh hoa rụng trên mặt quan tài rồi vội vã như lúc đến, chị xoay người, xỏ chân vào đôi dép bỏ ngoài hiên, đội chiếc nón rách lên đầu, đưa tay áo gạt nước mắt và tất tả bước đi.
Tôi đứng như cây cột nhà vô tri. Tôi moi móc trí nhớ để tìm những cô gái mà bố mẹ tôi đã từng ưng ý, muốn tôi nên vợ nên chồng với họ. Có vài người đã gọi bố mẹ tôi là ba, mẹ như thể họ đã là con dâu của bố mẹ tôi. Nhưng thuở ấy tôi là con chim mê mải những vùng trời. Tôi không muốn sống trong một chiếc lồng chật hẹp dù đó là chiếc lồng hạnh phúc. Tôi tung cánh bay về nơi chốn bình yên. Thời gian trôi đi. Người con gái nào có thể chờ đợi hai ba chục năm một kẻ không bao giờ hứa hẹn sẽ trở về?
Chờ con bé em đi qua, tôi kéo nó lại, thì thầm, “Bà nào vậy?”
“Ai?”
“Cái bà vừa mới khóc ở đây này.”
Con bé em chùi nước mắt, chớp nhanh hai hàng mi, “À, chị Nhạn đấy. Anh không nhận ra chị Nhạn à?”
“Nhạn thật à?” Tôi hỏi, đưa tay áo vải sô lau vội nước mắt.
Con bé em nhìn tôi thương hại, “Anh không còn nhận ra chị ấy nữa à?”
Tôi ngẩn người ra. Thì ra đấy là Nhạn. Nhưng không giống một chút gì của Nhạn áo trắng học trò ngày xưa. Không giống con nhạn lạc bầy trong bầy chim én vẫn vùn vụt bay dọc chiều dài con ngõ nơi những buổi chiều cuối tuần, nàng ghé thăm tôi. Tôi hỏi một câu hoàn toàn vô nghĩa, “Cô ấy… có chồng chưa?”
“Trời ơi, mấy chục năm rồi ai ở đó mà chờ…” Con bé buông lơi câu nói, nhìn tôi, những giọt nước mắt lăn trên gò má.
Tôi lặng người. Bỗng dưng tôi lắc đầu. Tôi muốn nói một câu gì đó. Nhưng lời tôi bỗng cạn như con suối mùa hạn hán. Tôi muốn xua đi hết những trang ký ức bỗng dưng trải dài trong trí tôi. Những con đường hò hẹn, những góc phố đón đưa. Cả những lần tôi dở chứng than thở thèm quá là thèm cái gì thật ngọt và có người lặn lội ra chợ mua đậu xanh nấu cho tôi nồi cháo. Cái người đã hứa theo tôi đến tận cuối đời.
“Anh không nhớ thật à?”
Tôi không muốn nghe thêm gì nữa. Tôi thèm được tha thứ. Nhưng con em tôi không tha thứ cho tôi. Nó xuống giọng, nhỏ nhẹ, “Từ lúc anh đi, chị ấy vẫn thường lại nhà chơi, từ hôm mẹ ốm không ngày nào mà chị ấy không sang.”
Tôi đứng lặng.
“Anh thì mẹ mất mới chịu về!”
Tôi lại khóc. Tôi khóc cho tôi. Bây giờ tôi hiểu vì sao cứ cầm điện thoại lên là mẹ lại hỏi trên đường dây viễn liên rằng Chừng nào con mới về? Bây giờ tôi hiểu tại sao tôi lại khóc nhiều như thế. Tôi khóc cho mẹ tôi và cho tất cả những người suốt đời mòn mỏi chờ một ai đó trở về.
HOÀNG CHÍNH
Comments
Post a Comment