Giới thiệu tác phẩm mới “The Making of the Universe” của Lê Tất Điều
THE MAKING OF THE UNIVERSE
Thưa Quý Bạn,
Xin gửi tới các bạn ebook “Mấy cõi vô cùng” đã được sửa chữa kỹ hơn, và ebook “The Making of the Universe” dành cho các bạn trẻ không còn rành tiếng Việt. Hai tác phẩm nội dung giống nhau, nhưng phần lớn “The Making of the Universe” được viết với một văn phong khác, nghiêm chỉnh hơn, nhưng kém vui.
Trong thư gửi độc giả của bản Anh ngữ, tôi có nêu thêm vài lý do khiến phải hoàn tất tác phẩm này. Xin ghi lại phần Việt ngữ để bạn đọc cho vui.
<!>
Thưa Quý Độc Giả,
Trong hơn một thế kỷ qua, khoa học thực nghiệm đã tiến những bước tuyệt vời. Nhưng khoa học lý thuyết lại hầu như giậm chân tại chỗ, bị níu kéo bởi hàng loạt những học thuyết phi vật lý – và, nói trắng ra: vô cùng phi lý.
Einstein, khi nhận xét về thuyết của Georges Lemaître “nguồn gốc hình thành Vũ trụ – thường gọi là Big Bang – đã thẳng thừng bác bỏ, gọi đó là “atrocious” và “unjustifiable from a physical point of view”. Chỉ có phần toán học, theo ông, là còn “đẹp”.
Ấy thế mà chính Einstein, khi giới thiệu Thuyết Tương Đối Hẹp, lại tuyên bố rằng thời gian sẽ trôi chậm lại trên một con tàu đang chuyển động – vận tốc càng lớn, thời gian càng chậm; đạt đến vận tốc ánh sáng, thời gian hoàn toàn ngừng trôi. Sau khi nghiên cứu kỹ, tôi thấy học thuyết này cũng “atrocious” và cũng “unjustifiable from a physical point of view” chẳng kém gì Big Bang. Tệ hơn nữa, nền tảng “toán học” của nó, dựa trên những hình vẽ sai lầm, còn đáng ngờ hơn, vì rất phi toán học.
Vậy là hai vị đại thụ của khoa học lý thuyết đã đưa ra những viễn kiến nghe thì thật tuyệt diệu, nhưng rốt cuộc lại trở thành gánh nặng cho hậu thế.
Thuyết của Einstein gây tổn hại tương đối nhẹ.
Nó chỉ tạo ra vô số thế hệ khoa học gia ưu tú dành cả đời để bảo vệ Tương Đối Hẹp trước mọi ý kiến chỉ trích, phản đối, và không ngừng truy tìm các hiện tượng tự nhiên có thể chứng minh Einstein đúng.
Tương Đối Hẹp đã thành một pháo đài, còn những người tin theo thì trở thành những vệ sĩ trung thành.
Khi thuyết đã được ghi vào sách giáo khoa, nó được những thế hệ nối tiếp – giáo sư, giảng viên, tác giả – bảo vệ cẩn mật. Sự nghiệp, danh tiếng, và thậm chí cả các thiết chế học thuật đều được xây dựng dựa trên nó. Thừa nhận sai lầm chẳng khác nào tháo dỡ cả một công trình trí tuệ được dựng lên suốt một thế kỷ.
Toán học của thuyết – thường chính xác, khả tín – cũng là lớp áo giáp che chắn. Những phương trình ấy, đặc biệt của Hendrik A. Lorentz, trông quá uy nghi và hoàn mỹ đến mức người ta khó lòng tin rằng chúng có thể sai.
Và trên tất cả là cái bóng Einstein – không chỉ là một nhà khoa học, mà là một biểu tượng văn hóa. Danh tiếng của ông lớn đến nỗi chỉ cần thắc mắc về lý thuyết của ông đã trở thành điều nguy hiểm, dại dột.
Vì thế, hơn một trăm năm trôi qua, Tương Đối Hẹp vẫn tiếp tục được tôn sùng. Vẫn được giảng dạy. Vẫn được ca ngợi.
Big Bang, ngược lại, gây hệ lụy nặng nề hơn nhiều.
Thuyết “Vũ trụ hình thành như thế nào?” của Georges Lemaître được đa số giới khoa học tin tưởng tuyệt đối. Nó được xem gần như một thông điệp thiêng liêng từ Đấng Tối Cao gửi xuống nhân loại qua vị linh mục – kiêm khoa học gia – lỗi lạc này.
Đối với phần lớn các nhà khoa học, Big Bang là chân lý: chỉ nên chiêm ngưỡng, không nên tranh luận.
Khác với thuyết giãn nở thời gian của Einstein, thường chỉ gợi hứng cho các câu chuyện khoa học giả tưởng, Big Bang tiếp tục tiêu hao nhân lực và tài lực của nhân loại cho đến tận bây giờ.
Năm 1954, CERN – phòng thí nghiệm “đập” nguyên tử lớn nhất thế giới – được thành lập tại Geneva như một dự án liên quốc gia. Sứ mệnh của nó là đập photons ở vận tốc gần ánh sáng để tạo ra một “Tiểu Big Bang”, từ đó quan sát những gì đã xảy ra khi Vũ trụ hình thành. Năm 2010, CERN cuối cùng đã tạo được “Tiểu Big Bang”, nhưng kết quả chỉ là proton va vào nhau, tạo ra nhiệt lượng rất lớn – đúng như những vụ va chạm năng lượng cao vẫn thường tạo ra.
Vậy mà, như học thuyết của Einstein, Big Bang vẫn tiếp tục được tôn vinh. Vẫn được giảng dạy. Vẫn được ca ngợi.
Sau hơn một thập niên tìm tòi và suy nghĩ, tôi còn thấy nhiều học thuyết hoàn toàn phi vật lý – nói thẳng là hết sức vô lý – nhưng vẫn được đưa vào giáo trình, vẫn được ca tụng. Chúng nằm đầy trong sách giáo khoa, tiếp tục làm rối trí học trò, và làm vẩn đục kho tàng tri thức chung của nhân loại.
Chẳng hạn, hãy xét đến “Điểm Kỳ Dị” (Singularity) – lời giải thích phổ biến cho Hố Đen.
Theo các nhà khoa học, Hố Đen có vùng không gian có sức hút ghê gớm đến mức ánh sáng cũng bị kéo vào, không thể thoát ra. Điều gì tạo nên sức hút bí hiểm ấy? Họ bảo đó chính là Singularity. Ray Kurzweil – người quảng bá nhiệt thành cho khái niệm này – giải thích: “It is a point where some property becomes infinite. At the center of a black hole, density supposedly becomes infinite because a finite mass is compressed into zero volume.”
Cái gì, loại vật chất nào bị nén tới mức thành “zero volume”? Sức mạnh nào làm cho cái “property bỗng biến thành infinite”? Tác giả không nói được những điều căn bản của Vật lý ấy cho “sáng tác” của mình, nhưng vẫn khơi khơi khoe khoang rằng đã thấy hai loại Singularity lận. Bịa đặt nhảm nhí đến thế mà không hề ngượng miệng!
Để xác nhận sự hiện hữu của “sóng hấp lực”, tiến sĩ Kip Thorne tuyên bố rằng LIGO đã “detect gravitational waves – những gợn sóng lan truyền trong không-thời gian, được cho là sinh ra từ sự hợp nhất của hai hố đen cách Trái Đất hơn một tỷ năm ánh sáng.”
Radio tạo sóng radio, âm thanh tạo sóng âm thanh, photon tạo sóng ánh sáng, nước tạo sóng nước v.v… còn “gravitational waves” thì tạo ra bởi cái gì, vật chất nào? Bị chất vấn như thế, các khoa học gia của LIGO bí, đã khiên cưỡng giải thích: Một baby black hole – kết quả của vụ hai black hole nhập một (!) – đã tạo ra gravitational waves! Một phát kiến khoa học, được lãnh giải Nobel cao quý, mà nghe cứ như chuyện khôi hài rẻ tiền.
Tất cả chỉ là những câu chuyện viển vông, đầy tưởng tượng, hoàn toàn “unjustifiable from a physical point of view”.
Nhân loại thực sự kém may mắn trong lĩnh vực gọi là “khoa học lý thuyết” này, khi những trí tuệ sáng suốt nhất của chúng ta lại mắc một chứng bệnh khó chữa: sự bướng bỉnh đến mù quáng đối với những niềm tin của chính họ.
Năm 1927, khi Georges Lemaître tung ra Big Bang, Einstein – bộ óc thông tuệ nhất thời đại – đã lập tức cảnh báo rằng học thuyết ấy tồi tệ và không thể chấp nhận được trên phương diện Vật lý. Nhưng giới khoa học đã bỏ ngoài tai lời cảnh báo ấy, rồi tuyệt đối tin tưởng Big Bang như chân lý bất diệt. Mà thuyết Big Bang, tự bản thân nó, cũng chẳng có gì là cao siêu. Thuyết chỉ có món “Nguyên Tử gốc” là có vẻ khoa học, phần còn lại như “chứa cả không gian lẫn thời gian, rồi nổ bùng thành Vũ trụ” thì ngớ ngẩn, ngô nghê như chuyện thần thoại.
Vậy mà các khoa học gia đã duy trì sự bướng bỉnh mù quáng đó gần một thế kỷ – một căn bệnh kéo dài đến mức ấy phải coi như hết thuốc chữa.
Vì thế, khi viết cuốn sách này, tôi không mảy may hy vọng sẽ thay đổi được chút gì trong ngành lý thuyết khoa học cận đại.
Những điều tôi nhận ra sau hơn mười năm nghiên cứu, tôi chỉ ghi lại vì lòng thương trẻ nhỏ, và với hy vọng rằng trong số độc giả của tôi – nhất là những thầy cô đang giảng dạy Vật lý – sẽ có người cùng chia sẻ tình thương ấy.
Trẻ em ngày nay đang phải chịu áp lực vô cùng lớn, đặc biệt là trong học tập. Trong hoàn cảnh đó, nếu chúng ta còn bắt các em tiếp thu những lý thuyết bịa đặt, hoang đường, phi vật lý – bắt các em “tiêu hóa”, ghi nhớ những món quái gở ấy – thì thật tàn nhẫn.
Nếu cuốn sách này giúp được một vài thầy cô tránh được sự nhẫn tâm vô tình ấy, tôi hoàn toàn mãn nguyện.
Lê Tất Điều
11/11/2025
(Tác giả gởi)
Comments
Post a Comment