Nhà văn Lê Minh Thiệp và Tình Đời. - Trần Thế Phong
TIN BUỒN
Ông LÊ MINH THIỆP
Cựu HSTH Trần Cao Vân Niên Khóa 1958-1965
Sinh Ngày 6 tháng 6 năm 1944 tại Quảng Nam - Việt Nam
Đã mất ngày 6 tháng 10 năm 2025 tại Maryland - USA
Hưởng Thọ 81 tuổi
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
TRẦN THẾ PHONG
và Bạn Hữu cùng lớp, cùng trường
*
Tôi quen biết nhà văn Lê Minh Thiệp từ ngày vào đệ thất trường trung học Trần Cao Vân Tam Kỳ. Đến năm đệ tứ thi trung học Thiệp chuyển ra Đà Nẵng và Hội An học ban C, vì Trần Cao Vân không có ban C và từ đó mất liên lạc nhau, bởi chiến tranh, đi lính, ở tù Cộng Sản và lưu lạc xứ người.
<!>
Khi đã về hưu ngồi nhớ lại những người bạn của thời niên thiếu, của thời trung học tôi liên lạc đươc với Lê Minh Thiệp.
Tôi biết Lê Minh Thiệp chọn ban C nặng tình với văn chương chữ nghĩa, tôi hỏi Thiệp có viết gì không? Thiệp trả lời: Để lấp đi những thời gian trống vắng khi đã về hưu có viết lai rai, Thiệp gởi cho tôi hai tập bản thảo. - một tập hồi ký: Trôi Theo Dòng Đời và - một tập truyện ngắn: Tình Đời.
Tôi rất phục người bạn “thất thập cổ lai hy” ngồi viết quyển hồi ký gần 500 trang. Lê Minh Thiệp nhớ như in những chi tiết nhỏ: tuổi thơ, những người bạn cùng chung môt lớp, môt mái trường, những ngày lính tráng, những ngày ở tù CS, những ngày đi kinh tế mới và đinh cư ở Mỹ đổi đời…
Tôi khâm phục trí nhớ của nhà văn Lê Minh Thiệp.
Tập truyên ngắn: Tình Đời.
Đọc xong tập truyện, độc giả xếp sách lại sẽ lắng xuống cõi lòng những bùi ngùi cảm động. Lê Minh Thiệp đã đưa lên những nhân vật, những mẫu chuyện đã xảy ra trong cõi đời nầy. Có lúc vui, buồn, sum hợp, chia xa, lên voi xuống chó…
- Từ Đó Mất Nhau: một chuyện tình thật đep, thật lãng mạn nhưng vì chiến tranh mà phải đành mất nhau.
Hải, một sĩ quan quân lực VNCN người miền Nam, binh chủng thiết giáp, phục vụ tai địa đầu giới tuyến Huế, Quảng Trị. Một ngày được nghỉ phép đi uống café tình cờ gặp Dung cô nữ sinh đất thần kinh, mười sáu tuổi học trường nội trú ở Quảng Trị về thăm nhà. Cô bé có vẻ đẹp như thiên thần đã làm rung động con tim của người lính chiến:
“Cô bé quả đẹp như thiên thần mà chàng đã dí dỏm khen khi nãy, khuôn mặt đầy đặn, trắng trẻo với cặp mắt đen huyền, sống mũi không cao như Tây nhưng không hề bị tẹt tí nào, nghĩa là rất vừa phải, cân đối, đẹp vô cùng, mái tóc chỉ vừa chấm vai, đôi bàn tay và cánh tay thon nhỏ trắng ngần, nhất là nước da và khuôn mặt ít có em bé nào sánh…”
Từ lần gặp đầu tiên Hải đã yêu Dung, những lần hẹn hò đi chơi Hải sợ xao lảng việc học của Dung, nhưng không kèm được cõi lòng, Hải tỏ tình với Dung:
“Chú yêu Dung, yêu với tất cả tấm lòng. Lâu nay chú không nói vì cứ sợ làm xáo trộn tâm trí của Dung và ảnh hưởng đến việc học của Dung nữa, với lại Dung hãy còn nhỏ, đồng thời chú cũng sợ, nên do dự, sợ nếu không may Dung từ chối thì chú sẽ buồn ghê lắm, e không chịu nổi. Bây giờ Dung không còn nhỏ nữa và chú cũng không thể giữ mãi sự im lặng trong lòng mình được. Ngoài ra nhìn vào tình hình đất nước, ngày càng khó lường, chú nghĩ nếu bây giờ không bày tỏ tình cảm của chú cho Dung biết, liệu lỡ có gì, lại không còn dịp để nói với Dung sự thật tình cảm đã chất chứa trong lòng chú từ bấy lâu nay.”
Với tư cách của người sĩ quan, nhiều lúc hẹn hò đi chơi gần nhau như lửa gần rơm nhưng không bốc cháy, nghe Dung tâm sự:
“Cháu may mắn gặp chú, tuy lúc ấy y như một con hổ, nhưng là con hổ tốt bụng, trọng danh dự, giữ lời hứa, chứ cháu thấy mình thua cuộc đến nơi và còn muốn được thua nữa là khác. Bây giờ cháu biết, là người phụ nữ nhất là con gái như cháu, luôn dễ thua cuộc, dễ đầu hàng trong trận chiến như thế nầy. Cảm ơn chú nhiều, đã cho Dung cái chiến thắng của kẻ thua cuộc.”
Một chuyện tình quá đẹp và thơ mộng. Tháng tư năm 1975 chiến tranh lại tràn về miền Nam gây biết bao đau thương cho người dân miền Nam: Cha xa con, vợ xa chồng, anh xa em, gia đình ly tán. Và Hải đã vĩnh viễn lạc mất Dung.
Đọc truyện nầy tôi cứ ngờ ngợ là của tác giả. Bởi sau 15 năm Tác giả tâm sự:
“Chiều nay, một buổi chiều Thu nơi vùng Bắc Mỹ, ngoài trời đã bắt đầu se lạnh, tôi một mình thả bước trên lối mòn trong công viên, tự nhiên thấy buồn vô hạn, nghĩ về mối tình tuyệt đẹp đầy bi ai của Hải và Dung, một chuyện tình thật dễ thương và lãng mạn. Nghĩ đến cảnh chia lìa tội nghiệp và đau thương của đôi tình nhân ấy, lòng tôi tê tái, buồn nhớ khôn nguôi. Từ những ngày tang thương của hơn mười lăm năm về trước, tôi không còn nghe tin gì của Hải hay Dung nữa.”
- Chuyện của Tùng:
Tùng một đại úy đẹp trai, hào hoa phong nhả, lấy vợ là Thu Hương một hoa khôi trong làng. Mọi người nhìn đôi vợ chồng rất đẹp đôi, hạnh phúc. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 miền Nam mất vào tay Cộng Sản, sĩ quan quân đội VNCH bị đi ở tù không biết ngày về, Những người vợ sĩ quan còn trẻ không chịu được khổ cực lấy cán bộ CS hay những người giàu có để nương nhờ và nuôi con. Nhưng đối với vợ Tùng là khác, nàng lấy Kính tài xế của Tùng khi còn ở đơn vị. Chín năm được cho về, vì khai địa chỉ nhà Hương nên chàng tìm đến. Một cảnh tượng mà Tùng không ngờ đến Hương và Kính là vợ chồng. Kính muốn trả Hương lại cho Tùng, nhưng nàng cạn tàu ráo mán trả lời Túng:
-“Kinh không đi đâu hết, anh Tùng nên tìm nơi khác sống, chuyện vợ chồng anh và tôi xem như không còn nữa kể từ ngày anh đi. Kinh là người lo cho mẹ con tôi kể từ ngày không có anh và con bé cũng đã xem Kinh là ba của nó.
Im lặng một vài giây, Hương tiếp:
-Tạm thời mới về, anh có thể ở lại nhà đây, ngủ tạm sofa trong thời gian chờ tìm một nơi khác và cũng nên đi tìm càng sớm càng tốt.”
Vì không có bà con thân thuộc, tạm thời Tùng ở lại nhà Hương, tối ngủ sofa, hằng đêm nghe tiếng ái ân của hai người, Tùng uất hận không không sao ngủ được.
Nhưng “người trung mắc nạn có tiên xuống phò”, Tùng đi lang thang thì gặp người bạn tên Khiêm lớn hơn Tùng 10 tuổi, thấy hoàn cảnh Tùng quá bi đát, giới thiệu một người con gái hơi lớn tuổi chưa có chồng, có công ăn việc làm ổn định, Tùng đã tìm được một hạnh phúc mới:
“Sau ngày ông Khiêm giới thiệu anh với cô Hạnh và thành vợ chồng, Tùng được giải thoát khỏi tình cảnh nghiệt ngã đầy cay đắng với người vợ cũ. Sống với người vợ mới nầy, Tùng thấy cuộc đời mình như đã chết đi, nay được sống lại, mà sống lại một cuộc sống đàng hoàng, phải nói là vô cùng hạnh phúc. Tuy Hạnh vợ chàng, bề ngoài có xấu thật, một người bình thường nhìn Hạnh quả không ai muốn lấy làm vợ, Hạnh không có nét gì hấp dẫn, mặt không trái xoan, mũi không dọc dừa, mắt lại còn hơi xếch và thêm một chút lé kim, thân hình hơi thô, không được thon gọn…Bù lại, Hạnh có một tấm lòng rất tốt, thương người, quảng đại và bao dung, thích giúp đở, đúng như cái tên cha mẹ đã đặt cho Hạnh,
Nhiều lúc hai vợ chồng bên nhau, Tùng tâm sự hết cõi lòng mình cho vợ nghe, để Hạnh khỏi mặc cảm và hiểu được tình cảm của Tùng dành cho Hạnh:
“Em biết không, cuộc đời anh, tuổi nầy rồi, anh không quan trọng vẻ đẹp bề ngoài nữa, em chớ bao giờ mặc cảm, tấm lòng và tình cảm của em là không gì thay thế được, đối với anh, em là đẹp nhất và hấp dẫn nhất, anh thú thật là anh lúc nào cũng mê em đó, em cũng đã biết rồi mà…, không phải mê cái bề ngoài của em đâu mà là mê…”
Chương trình HO, Mỹ đã ký kết với Việt Nam, chính phủ Mỹ sẽ bảo lãnh những người quân, cán, chính VNCH bị ở tù CS trên ba năm được đi định cư ở Mỹ. Tùng làm hồ sơ để hai vợ chồng đi định cư ở Mỹ. Tùng đã thoát được những tù đày, những cơ cực trong thời gian qua mà chàng đã gánh chịu:
“Năm 1990, chuyến bay quốc tế do cơ quan di trú IOM thuê bao, đã đưa vợ chồng Tùng-Hạnh đáp xuống Phi Trường John F. Kennedy, New York, bắt đầu một đời sống mới, mở ra trước mắt một chân trời tươi sáng, tự do và hạnh phúc.
Niềm mơ ước cả đời của nhiều người và nhất là của riêng Tùng, nay đã thành hiện thực.”
- Kẻ xấu Số.
Sau năm 1975, CS chiếm miền Nam, người ta thường nói: cây cột điện đi được cũng bỏ nước ra đi. Với chính sách đói nghèo của CS người dân tìm mọi cách vượt biên bằng đường bộ, đường biển mặc cho nguy hiểm, Biết bao nhiêu người bỏ xác ngoài biển cả, rừng sâu. Và đến bây giờ cũng còn nhiều người tìm cách ra đi để thoát ra khỏi chế độ độc tài của Cộng Sản.
Nhưng đối với Ngọc Ngà lại khác, nàng kết hôn với ông Việt kiều và định cư ở Mỹ, một nước văn minh, tự do nhất thế giới.
Chồng đã qua đời được 5 năm, nhưng Ngà còn rất đẹp duyên dáng thùy mị, ăn nói có duyên. Gái một con trông màn con mắt. Con gái dã được 12 tuổi, ở với cha mẹ. Có nhiều chàng trai muốn tỏ tình nhưng Ngà không quan tâm, nghỉ đến bước thêm một bước nửa. Nàng muốn ở vậy nuôi con gái, cha mẹ già và vui chơi với bạn bè.
Một người bạn gái cùng làng định cư ở Mỹ về thăm quê, thấy Ngà còn trẻ đẹp, duyên dáng, muốn giới thiệu cho Ngà một người đàn ông đã ly dị vợ, có nhà cửa, và công ăn việc làm ổn định. Lúc đầu Ngà từ chối nhưng người bạn phân tích hơn thiệt. Ông Việt kiều về gặp nàng là đồng ý ngay. Hai người kết hôn và làm hồ sơ bảo lãnh qua Mỹ.
Nhưng sống với nhau một thời gian, Ngà nhận thấy ông Hưng là một người đàn ông quá bần tiện, keo kiệt:
“Bây giờ lộ dần vẻ lạnh lùng, quan liêu, kẻ cả, không còn chìều chuộng nàng như trước, ông hay cay cú, gắt gỏng và nhất là thâu tóm tiền bạc, ông không muốn nàng có bất cứ tiền riêng nào. Ông cũng đã từng yêu cầu nàng chuyển số tiền mà nàng đang có từ bên VN qua cho ông để kinh doanh nhưng nàng còn do dự vì lẽ nàng muốn tìm hiểu việc kinh doanh như thế nào và cũng chưa thực sự tin tưởng ông vì nàng sớm cảm nhận ở ông một điều mà nàng rất tối kỵ, là con người ông quá nặng về tiền bạc, keo kiệt, tính toán, nếu không muốn nói là bủn xỉn, một đặc tính rất không nên có ở một người đàn ông đúng nghĩa.”
Sống với nhau được 3 năm, Ngà đã khám phá ông Hưng là một người đàn ông bản chất luôn luôn sống cho riêng mình, chỉ biết lợi dụng Ngà để làm lợi cho bản thân, không có một tình yêu chân thật:
“Cây kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra, bản chất con người thật của Hưng đã không che dấu mãi được. Nay lộ nguyên hình một người lợi dụng, đào mỏ, một người chỉ biết tiền, tất cả vì tiền, mê tiền hơn bất cư thứ gì. Ngà thấy mình vô tình xui xẻo trở thành nạn nhân, thành con tin của ông để đem về cho ông một nguồn thu nhập hợp pháp, một nguồn thu nhập vững chắc, an toàn, ông không phải đi đào tiền bằng con đường buôn lậu nguy hiểm.”
Và nàng quyết định trở về Việt Nam, biết là trở về sống dưới chế độ độc tài Cộng Sản nhưng nàng nghỉ ở quê hương còn có cha mẹ, con cái, hàng xóm láng giềng thương yêu đùm bọc lẩn nhau. Mặc dù bạn bè khuyên nàng ở lại tìm một tiểu bang khác để sinh sống, đợi vào quốc tịch rồi bảo lãnh cha mẹ và con gái, nhưng nàng quyết định trờ về:
“Ngà đã quyết định và thực hiện, nàng mua vé một chiều bay đi VN, tấm thẻ xanh nàng sẽ giữ kỹ như là một báu vật để làm kỷ niệm, là kỷ vật cay đắng mà nàng đã phải trải giá cho giấc mơ đi Mỹ của mình. Những ngày chờ đợi chuyến bay, nàng đã đi thăm cảm ơn và nói lời từ biệt tất cả bạn bè, người quen, cùng những ân nhân…, ai ai cũng tiếc cho nàng và cầu chúc nàng sớm quên đi những rủi ro nghiệt ngã của thời gian qua, ai cũng quí mến và ước mong có ngày nàng qua lại thăm chơi nước Mỹ.
Người con gái mười hai bến nước trong nhờ đục chịu, nhưng Ngà là một kẻ xấu số. Ngà đã được lên Thiên Đàng nhưng lại trở về địa ngục…Nhìn những bàn tay bạn bè vẫy đưa tiển, Ngà thui thủi, lầm lủi bước như xác không hồn, những giọt nước mắt nhỏ xuống trên đôi gò má, chỉ nàng hiểu được mình mà thôi:
Đúng ra như thường lệ, hầu hết những người ra sân bay để trở về quê hương, đều hớn hở vui mừng. Riêng Ngà sau những cái vẫy tay từ biệt, không những không chút vui mừng hớn hở, nàng thất thểu bước đi như kẻ không hồn, cúi mặt từng bước lặng lẽ theo dòng người, đi vào bên trong cánh cửa hành lang, cô đơn, buồn chán, tự nhiên hai hàng nước mắt chảy dài…
Và còn, còn những 13 truyện ngắn của nhà văn Lê Minh Thiệp đọc lên nghe thấm thía cuộc đời.
Văn phong của nhà văn Lê Minh Thiệp nhẹ nhàng, mộc mạt không triết lý khó hiểu. Ngồi bên nhau uống một vài ly trà, một vài chai bia và nghe Lê Minh Thiệp kể chuyện. Chuyện đời mình, chuyện bạn bè và những người thân. Tôi nghĩ những truyện ngắn của Lê Minh là truyện thật, không hư cấu. Lê Minh Thiệp có trí nhớ tuyệt vời anh thuật lại những gì như nó đã có từ lâu, bối cảnh nhân vật, thời gian và tình huống…Cầu mong nhà văn Lê Minh Thiệp nhiều sức khỏe để còn viết nhiều chuyện đời đã xảy ra mà độc giả không ngờ đến…
Trần Thế Phong
Comments
Post a Comment